
26/09/2024
28/08/2025
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Các thi sĩ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không ai quên trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) từng có một tiếng reo "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với "Tràng giang" của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với "Đây thôn Vĩ Giạ" của Hàn Mặc Tử.
Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong "Đây mùa thu tới" thật đẹp mà cũng thật buồn – một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca trung đại.
Nếu như cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ đẹp cho con người – như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: "Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” (Truyện Kiều) – thì với Xuân Diệu – "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" – con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng."
Chưa ai có một cách so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người thiếu nữ đứng xõa tóc "chịu tang". Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau "hàng hàng" rủ xuống như "lệ" giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng tăng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"
Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xơ xác trơ trụi, khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se se lạnh: "Đã nghe rét mướt luồn trong gió". Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình – điều ấy thể hiện qua nghệ thuật sử dụng phụ âm “r” (rụng/rũa/run rẩy/rung rinh) và phụ âm "m" (mỏng manh) – không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi "Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo" (Mùa thu câu cá – Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặn Cùng với "lá vàng" trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh "Mùa thu vàng" của danh họa Lê-vi-tan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào thu trong "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một "không gian vàng" – một màu vàng "mơ phai" rất riêng rất khó lẫn. Đó là màu vàng của "cái hồn thu qua sắc lá" (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. "Mùa thu tới!" – Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng: "Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!". Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy "giục giã", "vội vàng".
Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong "Đây mùa thu tới" đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong "Tràng giang" lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của "trời rộng", "sông dài”:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song"
…
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"
Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh ở đây rất sầu: từ "con thuyền", "cành củi khô" đến "nước", "sóng" và cả "bờ xanh", "bãi vàng”, "bến cô liêu" đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi "buồn điệp điệp" triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài:
"Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?). Từ nỗi buồn đằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh mang đất trời. Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài – rộng, cao – sâu. Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi được Huy Cận dựng lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu màu sắc cổ điển mà vẫn mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn "mang mang thiên cổ sầu" và một cái gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn còn vương vấn nơi bãi rộng sông dài với "bến cô liêu", với "bèo dạt", "mây", "cánh chim", "bóng chiều", với "khói hoàng hôn" với tình quê đậm đà, da diết cháy trong lòng thi nhân.
Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ, mang nỗi buồn của nhà thơ. Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong "Tràng giang", "nỗi buồn thấm trong từng câu chữ", đầy như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.
Trong "Đây mùa thu tới" nỗi buồn tỏa ra từ niềm cô đơn, quạnh vắng, còn trong "Đây thôn Vĩ Giạ" nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với "Đây mùa thu tới" và "Tràng giang", "Đây thôn Vĩ Giạ" là một bài thơ "có bước nhảy cảm xúc" (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi gắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ một, thi sĩ đang vui sướng "nhìn nắng hàng cau nắng mới lên", ngắm "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" thật đẹp đẽ của thôn Vĩ Giạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ – thánh thiện, vẻ đẹp tươi tắn, rạng rỡ, trinh nguyên của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng hoài niệm của Hàn Mặc Tử. Đến khổ thứ hai, cảm xúc của thi nhân chợt lắng xuống thoáng buồn:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
"Đây mùa thu tới" nói về nỗi buồn tàn lụi, chia lìa: "Hơn một loài hoa đã rụng cành, trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh" với cách nói phiếm định: "hơn một" đệm màu sắc văn hóa phương Tây, đầy mới mẻ. "Tràng giang" nói về nỗi buồn li biệt của cảnh: "Con thuyền xuôi mái nước song song" mang dấu ấn cổ điển. Và "Đây thôn Vĩ Giạ" cùng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: "Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" nhưng không đơn giản chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là dòng "sông trăng" chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái đẹp trinh nguyên của xứ Huế mộng mơ thực tại, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một cái dẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Cũng như nỗi buồn của Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới", nỗi buồn của Hàn Mặc Tử ở đây cũng thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triền miên, dữ dội như sóng của Huy Cận trong "Tràng giang".
Với thể thơ thất ngôn truyền thống, nhìn chung, nỗi buồn của thơ Xuân Diệu là nỗi "buồn không nói", của thơ Huy Cận là nỗi "buồn điệp điệp", của thơ Hàn Mặc Tử là nỗi "buồn thiu”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được thi nhân nhắc đến là để xoa dịu nỗi buồn bị quên lãng ("Đây thôn Vĩ Giạ"); xóa cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm đến một tình quê ấm áp ("Tràng giang"); xóa cái lạnh của lòng người, tìm đến một tình yêu, một khát vọng giao cảm với thiên nhiên, với cuộc đời ("Đây mùa thu tới"). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.
Thiên nhiên trong thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều đó đã chứng tỏ một tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới nói chung và của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng.
26/09/2024
lê tuấnNguyễn Bính và Xuân Diệu là hai gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca lãng mạn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Cùng viết về tình yêu, nhưng qua hai đoạn thơ "Tương tư" của Nguyễn Bính và "Tương tư chiều" của Xuân Diệu, mỗi tác giả lại có cách thể hiện và cảm xúc riêng biệt, tạo nên những phong cách độc đáo, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Điểm giống nhau đầu tiên giữa hai đoạn thơ là cả hai đều nói về nỗi tương tư, nỗi nhớ nhung dằn vặt và mãnh liệt của nhân vật trữ tình dành cho người yêu. Tương tư, hay nỗi nhớ, trở thành chủ đề chính trong cả hai tác phẩm, được khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc. Ở cả Nguyễn Bính và Xuân Diệu, tình yêu không chỉ đơn thuần là cảm xúc nhẹ nhàng, mà là nỗi day dứt, khắc khoải. Nhân vật trữ tình trong thơ luôn tràn đầy cảm xúc nhớ nhung, khao khát được gặp gỡ và yêu thương. Cả hai tác giả đều sử dụng những hình ảnh rất cụ thể, gần gũi để diễn tả tâm trạng này: Nguyễn Bính dùng hình ảnh cau, giầu – biểu tượng của tình yêu mộc mạc, còn Xuân Diệu thì tái hiện nỗi nhớ qua hình ảnh đôi môi, đôi mắt, cái nắm tay – những chi tiết của tình yêu nồng cháy.
Tuy nhiên, sự khác biệt trong phong cách thể hiện của hai nhà thơ là điều dễ nhận thấy. Nguyễn Bính, với hồn thơ chân chất, mộc mạc, luôn mang đến cho người đọc một không gian làng quê gần gũi, đậm chất dân gian. Trong bài "Tương tư", nỗi nhớ của chàng trai là sự kết hợp của phong cảnh thôn quê với hình ảnh "giàn giầu", "hàng cau", "thôn Đoài", "thôn Đông". Cách biểu đạt của Nguyễn Bính đơn giản, gần gũi, gợi lên không khí nhẹ nhàng, thân thuộc của những câu chuyện tình ở làng quê Việt Nam. Nỗi nhớ trong thơ ông có vẻ thầm kín, sâu lắng, như một nỗi khắc khoải không thể diễn đạt thành lời. Hình ảnh cau và giầu, thôn Đoài và thôn Đông tạo nên sự phân cách không gian, cũng chính là khoảng cách giữa hai trái tim, làm nổi bật nỗi cô đơn, xa cách.
Ngược lại, Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu say đắm, mãnh liệt. Trong đoạn thơ "Tương tư chiều", nỗi nhớ của nhân vật trữ tình bùng nổ, tràn đầy cảm xúc. Xuân Diệu không chỉ dừng lại ở những hình ảnh mộc mạc, mà dùng những từ ngữ mạnh mẽ hơn như "nhớ tiếng", "nhớ hình", "nhớ lắm". Tình yêu trong thơ Xuân Diệu không còn là một nỗi khắc khoải nhẹ nhàng mà là sự khao khát cuồng nhiệt, mong muốn được gần gũi, hòa quyện. Câu thơ "Em! Xích lại! Và đưa tay anh nắm!" thể hiện rõ tính chất nóng bỏng của tình yêu trong thơ ông. Nhân vật trữ tình của Xuân Diệu không chịu sự xa cách, mà muốn phá vỡ khoảng cách, muốn tiếp cận và nắm lấy tình yêu ngay lập tức.
Một điểm khác biệt nữa là ở cách diễn đạt cảm xúc. Nguyễn Bính thiên về sự kín đáo, nhẹ nhàng, nỗi tương tư được thể hiện qua những câu hỏi bâng quơ, xa vời: "Bao giờ bến mới gặp đò? Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?". Nỗi nhớ của chàng trai dường như là sự trông đợi âm thầm, không rõ liệu có được đáp lại hay không. Trong khi đó, Xuân Diệu lại thể hiện tình yêu trực tiếp và mạnh mẽ, không ngần ngại thốt lên: "Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!". Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là sự sôi nổi, cuồng nhiệt, không ngại bộc lộ cảm xúc mãnh liệt.
Như vậy, dù cùng viết về nỗi tương tư, nhưng Nguyễn Bính và Xuân Diệu lại có những điểm khác biệt rõ rệt trong phong cách sáng tác. Nếu Nguyễn Bính mang đến sự chân chất, bình dị của tình yêu làng quê, thì Xuân Diệu lại nổi bật với sự say mê, khao khát của một tình yêu nồng cháy. Hai phong cách này, dù khác nhau, đều góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của thơ ca lãng mạn Việt Nam.
26/09/2024
lê tuấn 1. Mở bài
– Giới thiệu một vài nét về phong cách nổi bật của hai nhà thơ Nguyễn Bính và Xuân Diệu, khẳng định họ rất khác nhau nhưng đều là các nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới.
– Điều đó có thể thấy rõ qua việc phân tích hai đoạn thơ cùng viết về một đề tài quen thuộc: tương tư.
2. Thân bài
– Điểm giống nhau giữa hai đoạn thơ:
+ Cùng viết về một đề tài rất thơ mới: tương tư – một trạng thái tình cảm thường xuất hiện khi người ta đang yêu.
+ Nội dung cảm xúc: thể hiện nỗi nhớ da diết, mãnh liệt của chủ thể trữ tình – những chàng trai đa tình, sống hết mình cho tình yêu.
– Sự khác nhau:
+ Về nội dung: Cùng thé hiện nỗi nhớ da diết trong tình yêu nhưng nỗi nhớ trong đoạn thơ của Nguyễn Bính mang nặng nỗi niềm trăn trở, băn khoăn. Tình cảm được thể hiện một cách tế nhị, kín đáo, chủ yếu là tỏ tình, ướm hỏi với bao khát khao, mong ước. Đây là nỗi tương tư một phía, vào thời điểm mới bắt đầu của một tình yêu mang đậm màu sắc dân gian.
Trạng thái tương tư được thể hiện trong đoạn thơ của Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt, dâng trào. Tác giả công khai thể hiện nỗi nhớ cháy bỏng, da diết và khát khao được gần gũi, sẻ chia với người mình yêu. Đây là trạng thái tương tư của một tình yêu rất "hiện đại".
+ Về hình thức: cần làm nổi bật cách thể hiện rất khác nhau của hai nhà thơ khi bộc lộ trạng thái tương tư. Có thể so sánh trên nhiều bình diện hình thức: thể thơ, thi liệu, nhịp điệu, từ ngữ, hình ảnh, tu từ,… Chẳng hạn, về nhịp điệu thơ, có thểnhận ra những câu thơ của Nguyễn Bính nhẹ nhàng, sâu lắng, da diết một nỗi nhớ dường như đang cố nén lại trong lòng; còn những câu thơ của Xuân Diệu lại gấp gáp, dồn dập như muốn phơi bày tất cả nỗi lòng mình một cách cuồng nhiệt nhất.
HS cần chú ý chỉ ra sự phù hợp của hình thức đối với việc biểu đạt nội dung vừa nêu ở trên. Tránh việc chỉ nêu ra những hình thức thể hiện khác nhau nhưng không thấy vai trò và tác dụng của chúng.
3. Kết bài
– Đánh giá, bình luận: Nguyễn Bính và Xuân Diệu là những nhà thơ lớn và qua hai đoạn thơ, có thể thấy rất rõ dấu ấn phong cách của mỗi người.
– Nêu bài học cho sáng tạo nghệ thuật: Có được một giọng điệu riêng, một phong cách độc đáo là hết sức khó khãn và không phải nhà thơ nào cũng làm được, nhưng đó là yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật và xét ở khía cạnh này, Xuân Diệu và Nguyễn Bính đã rất thành công.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời