Nam Cao là một cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông phản ánh một cách chân thực xã hội đầy rối ren và loạn lạc, đồng thời cũng bộc lộ niềm khao khát tìm đến những giá trị nhân văn cao cả. Một trong những tác phẩm nổi bật viết về đề tài triết lí nhân sinh là “Đời thừa”, đặc biệt là qua hình tượng nhân vật Hộ.
“Đời thừa” được sáng tác năm 1943 với bản thân là một nhà văn, Hộ đã thấm thía được điều này hơn ai hết. Anh luôn trăn trở, day dứt về giá trị của cuộc sống, của tình thương và hơn cả là giá trị của nghệ thuật. Với Hộ, một tác phẩm có giá trị khi nó “chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Cũng chính vì quan niệm ấy mà mỗi lần cầm bút, Hộ luôn tự ép mình viết những tác phẩm thật hay, thật có giá trị để đời. Nhưng càng mong mỏi bao nhiêu thì Hộ lại càng thất vọng bấy nhiêu. Những đứa con tinh thần được Hộ gửi gắm biết bao nhiêu tâm tư, tình cảm đều không được như mong đợi. Chúng chỉ là những dòng văn “vội vã”, “tẻ nhạt”, “bằng phẳng”, “quá ư dễ dãi” và thậm chí là “vô vị”, “nhạt nhẽo”. Từ một người luôn cố gắng hoàn thiện bản thân, Hộ dần sa ngã và chìm đắm trong những cơn say triền miên.
Hộ là một nhà văn có trách nhiệm với nghề nghiệp, có ước mơ, hoài bão lớn lao. Anh từng quan niệm rằng: “Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cách khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có”. Chính vì vậy, Hộ luôn cố gắng để nâng tầm giá trị của văn chương nước nhà. Thế nhưng, khi bước chân vào con đường mưu sinh vất vả, Hộ bắt buộc phải viết những thứ thị trường ưa chuộng chứ không phải những gì mình thích. Và rồi, Hộ rơi vào bế tắc, tuyệt vọng. Anh nhận ra rằng, khi phải lo lắng cho vợ con, cho những nhu cầu thiết yếu hằng ngày thì sẽ không còn chỗ cho văn chương nữa. Đó chính là bi kịch của những trí thức tiểu tư sản yêu nước trước năm 1945. Bi kịch ấy không giết chết Hộ nhưng lại khiến anh dần tha hóa. Hộ biến mình từ một thanh niên trí thức giàu tri thức, giàu đức tin trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo. Hộ đánh vợ trong cơn say nhưng lại không nhớ gì khi tỉnh. Có lẽ, chính cái nghèo, cái khó đã đẩy Hộ vào bi kịch. Nếu không phải vì tiền, không phải vì cái nghèo đeo bám thì liệu Hộ có biến chất như vậy không?
Qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã bày tỏ thái độ trân trọng đối với những người trí thức nghèo. Ông cũng thể hiện niềm xót xa đối với những bi kịch mà họ phải chịu đựng. Đồng thời, ông cũng thể hiện niềm tin vào con người, vào bản chất tốt đẹp của con người. Dù Hộ có tha hóa đến đâu thì anh vẫn quay trở về với bản chất lương thiện. Anh khóc, anh khóc vì thương cho Từ, cho những đứa con, khóc cho chính bản thân mình. Giọt nước mắt chính là biểu hiện của cái “nền tảng thiết yếu của con người”, là biểu hiện của cái “thiêng liêng, cao quý nhất” của con người. Qua đó, Nam Cao khẳng định niềm tin mãnh liệt vào con người dù có bị hoàn cảnh xô đẩy đến mức nào đi chăng nữa.
Có thể nói, “Đời thừa” là một tác phẩm thành công của Nam Cao. Tác phẩm đã xây dựng thành công nhân vật Hộ - một trí thức nghèo giữa bối cảnh xã hội đen tối. Thông qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã bày tỏ tấm lòng của mình đối với những người trí thức nghèo và khẳng định niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người.