Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903 tại làng Dân Chủ, Hà Nội, mất năm 1977 tại Việt Trì, Phú Thọ. Ông xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, cha của tác giả từng làm Đốc học ở Hà Giang, Tuyên Quang; sau đó về hưu, sống tại Thái Bình. Nguyễn Công Hoan là con trai út trong gia đình. Năm 12 tuổi, ông bắt đầu đi học chữ Quốc ngữ và học thêm tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học, ông thi đỗ vào ngành sư phạm cao cấp của Đông Dương và được cử đi dạy học tại Trường Trung học cơ sở Nam Sách, Hải Dương. Từ đây, ông bắt đầu sáng tác thơ, văn. Năm 1930, Nguyễn Công Hoan viết vở kịch đầu tiên mang tên "Đời cô Nguyệt". Vở kịch này bị cấm diễn ngay từ buổi tổng duyệt. Năm 1931, ông in tập thơ "Lửa thiêng" và tập truyện ngắn "Bước đường cùng", tuy nhiên hai tác phẩm này không gây được tiếng vang lớn. Năm 1936, Nguyễn Công Hoan tham gia phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương, trở thành hội viên Hội Văn hoá cứu quốc và là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa I. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động báo chí ở Việt Bắc, phụ trách tiểu ban Văn nghệ Liên khu III. Sau năm 1954, Nguyễn Công Hoan tiếp tục hoạt động văn nghệ và giảng dạy tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông là đại biểu Quốc hội khóa II và III. Nguyễn Công Hoan là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam. Các tác phẩm của ông thường xoay quanh cuộc sống của người nông dân và người lao động nghèo khổ, tố cáo chế độ xã hội bất công, áp bức, bóc lột. Một số tác phẩm nổi bật của Nguyễn Công Hoan bao gồm: "Kép Tư Bền" (tiểu thuyết, 1935), "Bước đường cùng" (tập truyện ngắn, 1938), "Một đêm tân hôn" (tập truyện ngắn, 1939), "Trúng số độc đắc" (tập truyện ngắn, 1938), "Người ngựa, ngựa người" (tập truyện ngắn, 1940). Ngoài ra, ông còn viết nhiều tác phẩm khác như: "Tiền tệ", "Thằng tâm, Thằng can", "Mụ nám", "Cả tin", "Vợ chúa vợ tôi"...