Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 của nước ta. Các sáng tác của ông gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn. Trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ ba bài viết về bạn ông là Dương Khuê gồm: “Khóc Dương Khuê”, “ thăm mộ Dương Khuê” và “ Ước xưa”. Đây là những bài thơ cảm động thể hiện tình bạn chân thành thắm thiết.
Trong các bài thơ trên thì bài “ Khóc Dương Khuê” được coi là kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Bài thơ được viết bằng thể thơ song thất lục bát – thể thơ dân tộc. Với tấm lòng thương tiếc người bạn quá cố, Nguyễn Khuyến đã làm nên một bài thơ đặc sắc, giàu cảm xúc.
Mở đầu bài thơ là lời thông báo về sự ra đi đột ngột của bạn:
“ Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”
Nhà thơ sử dụng từ “ thôi” lặp lại hai lần kết hợp với cụm từ chỉ sự dứt khoát “đã thôi rồi” như một tiếng nấc nghẹn ngào đau đớn trước sự thật phũ phàng. Từ láy “man mác” càng tô đậm nỗi buồn sâu thẳm không có cách nào có thể xua tan đi được. Câu thơ gợi cho ta liên tưởng đến tâm trạng của Nguyễn Khuyến khi nghe tin con trai duy nhất mất. Nỗi đau ấy trở thành nỗi ám ảnh day dứt trong trái tim nhà thơ.
Tiếp đến là hình ảnh người bạn tri âm tri kỉ hiện lên qua hồi ức của tác giả:
“ Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời
…
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua,
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.”
Những kỉ niệm giữa đôi bạn nhân lúc thi cử, lúc vinh quy, lúc bàn chuyện triều chính,... cứ hiện dần lên trong kí ức nhà thơ. Đó là những kỉ niệm đẹp, khó phai mờ. Tác giả nhớ về tính cách, phẩm chất tốt đẹp của bạn mình. Đó là người có tài, đỗ đạt cao, ra làm quan giúp vua giúp nước. Tình nghĩa giữa họ bền chặt suốt mấy chục năm, vẫn kính trọng, yêu mến nhau như thuở còn trẻ.
Sự ra đi đột ngột của Dương Khuê khiến Nguyễn Khuyến hụt hẫng vô cùng bởi ông chưa tìm được ai có thể thay thế vị trí của Dương Khuê trong cuộc đời mình. Ông tự hỏi vì sao ông trời lại bất công với mình như vậy. Những câu thơ tiếp theo nói về thú vui tao nhã của hai người bạn: uống rượu, đánh cờ, ngâm thơ. Đó là những giây phút thư giãn thoải mái nhất của hai người. Nhưng giờ đây, Nguyễn Khuyến chẳng biết san sẻ niềm vui ấy với ai.
Hai câu thơ cuối đầy hàm ý sâu xa:
“ Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương.
Trắng màu hoa nở, trắng phau phau,
Thơm mùi hương tỏa, thơm lai láng.”
Dương Khuê mất rồi, Nguyễn Khuyến đành chấp nhận sự thật ấy và coi đó là quy luật của tự nhiên. Nhưng ông vẫn không khỏi xót xa, tiếc nuối. Hình ảnh hoa trắng gợi liên tưởng tới sự tinh khiết, trong trẻo, tượng trưng cho linh hồn thanh sạch bay lên trời. Hương thơm lan tỏa mãi không nguôi thể hiện sự lưu luyến trần gian của người đã khuất. Qua đó, ta thấy được tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Nguyễn Khuyến.
Bài thơ “ Khóc Dương Khuê” mang đậm bản chất nông dân, bình dị, dễ hiểu, giàu tình người. Ngôn ngữ thơ tinh tế, biểu cảm, giọng điệu thân mật, nhịp thơ chậm rãi giống như lời kể của tác giả. Tất cả góp phần tạo nên một bài thơ đặc sắc, giàu cảm xúc.