phần:
: Bài thơ Thu ẩm thuộc thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đặc điểm của thể thơ này là mỗi bài gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Hiệp vần là ở chữ cuối cùng của các , 2,4,6,8 (thường là vần bằng). Về niêm: niêm với ; niêm với ; niêm với ; niêm với . Về đối: Các , 4 và 6, 7 đối nhau. Bài thơ Thu ẩm nói về chuyện uống rượu mùa thu nhưng chủ yếu là bộc lộ tâm trạng của nhà thơ. Qua bài thơ ta thấy được bức tranh mùa thu nơi thôn quê thanh bình yên ả, đồng thời cũng thấy được một phần con người của Nguyễn Khuyến. Đó là người luôn yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng bên cạnh đó còn là một người luôn canh cánh nỗi niềm dân nước. Trong hai câu thơ đầu tiên, khung cảnh mùa thu đã được khắc họa vô cùng sinh động. Không khí se lạnh của mùa thu bao trùm lấy ngôi nhà cũ. Sự tĩnh lặng của buổi chiều tà càng tô đậm thêm vẻ đẹp của mùa thu. Khung cảnh mùa thu hiện ra trước mắt chúng ta thật đẹp và nên thơ. Cảnh vật dường như hài hòa với nhau hơn, tôn lên vẻ đẹp của nhau. Mùa thu với tiết trời mát mẻ, dễ chịu khiến cho con người ta cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng. Những hình ảnh “rượu tiếng rằng hay”,”độ năm ba chén đã say nhè” gợi lên hình ảnh nhân vật trữ tình đang ngồi uống rượu một mình. Ông uống rượu nhưng lại không hề thưởng thức cái ngon của rượu mà ông uống để quên đi thực tại đau buồn. Hình ảnh “say nhè” chính là minh chứng rõ nhất cho điều này. Ông say tới mức không biết trời trăng là gì. Từ láy “lòng khòng” dùng để chỉ dáng điệu của người đang say rượu. Nó vừa gợi ra tư thế ngồi không vững chãi, lại vừa gợi ra dáng điệu say rượu của người uống. Hai câu thơ tiếp theo vẫn là khung cảnh mùa thu nhưng nó đã trở nên u ám hơn rất nhiều. Màu sắc của mùa thu đã thay đổi hoàn toàn. Bầu trời vốn trong xanh nay đã bị nhuốm màu đen kịt. Bóng đêm dần buông xuống báo hiệu một ngày sắp hết. Ánh sáng của ngọn đèn dầu chính là ánh sáng duy nhất còn sót lại lúc này. Nó soi rọi mọi thứ nhưng cũng không đủ sức xua tan đi màn đêm tăm tối. Hình ảnh “man mác” gợi lên tâm trạng buồn bã, man mác không biết bày tỏ cùng ai của thi sĩ. Tâm trạng cô đơn, lẻ loi của thi sĩ lúc này như lan tỏa sang cả cảnh vật xung quanh.
phần:
câu 10: Bài thơ “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ với những nét đẹp đặc trưng đồng thời gửi gắm tâm trạng đầy buồn bã của một người có tâm hồn nhạy cảm trước cảnh đất nước đang rơi vào tay giặc. Bài thơ vừa là bức tranh thiên nhiên mùa thu tuyệt sắc, vừa bộc lộ tình yêu thiên nhiên, đất nước cũng như tâm trạng thời thế của tác giả.
câu 11: Bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến được viết bằng thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đặc điểm của thể thơ này là mỗi bài gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Nhịp điệu và vần được sắp xếp một cách chặt chẽ để tạo nên sự cân đối và nhịp nhàng trong từng câu thơ. Bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến sử dụng nhiều hình ảnh tươi đẹp và tinh tế để mô tả cảnh sắc mùa thu. Những hình ảnh này bao gồm lá vàng rơi, sương mù dày đặc, ánh nắng mờ ảo, và bầu trời xanh thẳm. Tất cả những yếu tố này tạo nên một bức tranh mùa thu tuyệt đẹp và đầy sức sống. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ trong câu thơ “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp thanh bình, yên tĩnh của mùa thu. Các từ tượng hình được sử dụng trong bài thơ là “lưng giậu phất phơ”, “lóng lánh bóng trăng loe”, “đỏ hoe”. Những từ này giúp tái hiện sinh động khung cảnh mùa thu với những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế. Từ “vầy” trong câu thơ “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.” mang ý nghĩa là thường xuyên, luôn luôn. Nó diễn tả trạng thái mệt mỏi, uể oải của nhân vật chính sau khi uống rượu. Câu thơ này thể hiện sự tương phản giữa mong muốn thư giãn và thực tế khó khăn của cuộc sống. Trong bài thơ, tác giả cố gắng tận hưởng niềm vui của việc uống rượu nhưng cuối cùng lại trở nên mệt mỏi và buồn ngủ. Điều này có thể đại diện cho sự bất lực trước hoàn cảnh hoặc sự chấp nhận của tác giả về thực tế cuộc sống. Trong bài thơ, tác giả không đạt được mục đích của mình (không câu được cá) nhưng vẫn giữ được tâm hồn thanh cao và hòa hợp với thiên nhiên. Điều này cho thấy ông đã tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong việc hòa mình vào tự nhiên thay vì đạt được mục tiêu cụ thể. Đây là triết lý sống của người xưa, coi trọng đạo đức và phẩm chất hơn là danh lợi và địa vị xã hội. Bút pháp "tả cảnh ngụ tình" được thể hiện rõ trong bài thơ Thu ẩm. Cảnh thu được miêu tả rất chân thực, sinh động thông qua việc sử dụng các hình ảnh, màu sắc, âm thanh và ánh sáng. Qua đó, tác giả gửi gắm tâm trạng u sầu, cô đơn và bất lực trước thời cuộc. Tình cảm yêu nước thầm kín cũng được thể hiện qua việc khắc họa cảnh vật hoang vắng, tàn tạ của đất nước. Qua bài thơ Uống rượu mùa thu, ta có thể thấy được tình cảm, nỗi lòng của nhà thơ Nguyễn Khuyến dành cho quê hương, đất nước. Ông yêu mến và gắn bó sâu đậm với quê hương, đồng thời cũng đau đớn trước cảnh đất nước bị xâm lược và chia cắt. Điểm giống nhau về đề tài và điểm khác biệt về thời gian nghệ thuật trong hai bài thơ là cả hai đều tập trung vào mùa thu và cảnh sắc thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu Câu cá mùa thu tập trung vào hoạt động câu cá và cảnh sắc tĩnh lặng của mùa thu, thì Uống rượu mùa thu lại tập trung vào việc thưởng thức rượu và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Không gian nghệ thuật trong bài thơ được miêu tả là một không gian tĩnh lặng, vắng vẻ và đượm buồn. Sự xuất hiện của con người càng làm tăng thêm sự cô đơn và trống trải. Nhân vật trữ tình dường như đang chìm đắm trong suy tư và trầm mặc, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Trong cả hai bài thơ, nhà thơ đều sử dụng bút pháp cổ điển để miêu tả cảnh sắc thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Việc sử dụng các hình ảnh, màu sắc, âm thanh và ánh sáng tạo nên một bức tranh mùa thu vừa tươi đẹp, vừa u ám, thể hiện tâm trạng phức tạp của nhà thơ.