Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc trong trào lưu hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là tiểu thuyết "Tắt đèn". Đoạn trích đã thể hiện rõ nét cảnh ngộ khốn cùng của người nông dân nghèo dưới chế độ phong kiến đương thời. Trong khi đó, Nam Cao cũng được biết đến với những trang viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng qua các nhân vật như Chí Phèo, Lão Hạc... Truyện ngắn "Lão Hạc" chính là một thành công đáng chú ý. Nhân vật chính của tác phẩm - lão Hạc - cũng là một hình tượng điển hình cho người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, ở mỗi tác giả lại có những khám phá riêng, đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc khác nhau về số phận và vẻ đẹp của người nông dân.
Trước hết, cả Ngô Tất Tố và Nam Cao đều phản ánh chân thực tình cảnh bi thảm của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng qua hình ảnh chị Dậu và lão Hạc. Chị Dậu phải bán con, bán chó để đủ tiền nộp sưu thuế. Còn lão Hạc thì đau đớn tột cùng khi phải bán cậu Vàng - kỉ vật cuối cùng của anh con trai. Không chỉ vậy, chị Dậu còn bị bọn cường hào ác bá đánh đập tàn nhẫn. Cuộc sống của chị chỉ toàn những tủi nhục, đắng cay. Lão Hạc cũng chịu chung số phận bất hạnh ấy. Vì một cơn ốm nặng kéo dài, lão không đủ sức thuê người làm nên mảnh vườn bị người ta cướp mất. Lão đành cắn răng bán đi cậu Vàng - người bạn thân thiết của mình. Nhưng rồi sau đó, vì lỡ tin vào thằng con trai mà lão đã tìm đến cái chết bằng bả chó. Cái chết dữ dội và thê thảm vô cùng. Cả hai tác giả đều tập trung bút lực miêu tả sự bế tắc tuyệt vọng của người nông dân. Họ bị đẩy đến bước đường cùng bởi nạn sưu cao thuế nặng, bởi thói tham lam độc ác của bọn cường hào ác bá, bởi sự nghèo đói cơ cực. Và từ đó, họ buộc phải lựa chọn con đường tự giải thoát bản thân khỏi nỗi khổ. Đó là bán con, bán chó hay là cái chết đầy đau đớn. Qua đây, chúng ta thấy được số phận bi thảm của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng.
Không chỉ vậy, cả hai tác giả còn khắc họa thành công vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người nông dân Việt Nam. Trước hết, ở chị Dậu, ta thấy nổi bật lên tinh thần yêu thương chồng con tha thiết. Khi anh Dậu bị bọn tay chân cai lý đánh, chị đã hạ mình van xin, nài nỉ. Để cứu chồng, chị Dậu sẵn sàng bán đi đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo. Đặc biệt, hành động vùng dậy đánh ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng chứng tỏ chị Dậu không còn là kẻ yếu đuối, nhu nhược mà là một con người dũng cảm, tiềm tàng sức sống mạnh mẽ, quyết liệt. Ở lão Hạc, ta càng thêm trân trọng tấm lòng lương thiện, hiền lành, chất phác. Lão luôn day dứt, ân hận vì không lo cưới được cho con trai một tấm vợ ưng ý. Lão cũng rất thương con, nhớ con dù đang sống trong hoàn cảnh nghèo túng. Đặc biệt, lão thà nhịn ăn chứ nhất định không chịu bán đi một sào vườn để dành cho con. Lão cũng rất yêu thương cậu Vàng - kỉ vật của người con trai. Cuối cùng, lão chọn cái chết để bảo toàn những gì thuộc về con. Như vậy, cả hai tác giả đều xây dựng thành công hình tượng người nông dân với những phẩm chất tốt đẹp.
Tuy nhiên, ở mỗi tác giả lại có những phát hiện riêng. Nếu như ở chị Dậu, ta thấy nổi bật lên tinh thần phản kháng mãnh liệt thì ở lão Hạc, ta lại thấy được tấm lòng lương thiện, hiền lành, chất phác. Có lẽ bởi sinh ra trong gia đình khá giả, lại được học hành nên chị Dậu có phần mạnh mẽ hơn. Còn lão Hạc vốn là người nông dân nghèo khó, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời nên lão mang trong mình những vẻ đẹp bình dị mà mộc mạc. Đồng thời, điều này cũng cho thấy sự am hiểu đời sống thôn quê của hai tác giả.
Như vậy, cả hai đoạn trích đều thể hiện tài năng nghệ thuật của hai nhà văn. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, kết hợp với nhiều biện pháp tu từ đặc sắc, hai tác giả đã xây dựng thành công hình tượng người nông dân Việt Nam trước Cách mạng.
Qua hai tác phẩm "Tắt đèn" và "Lão Hạc", ta thấy được số phận bi thảm nhưng đồng thời cũng thấy được những vẻ đẹp cao quý của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng và yêu mến họ.