Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thiên về cảm xúc, suy tư, giàu chất trữ tình chính luận. Đất Nước (trích Trường ca Mặt đường khát vọng) được sáng tác năm 1971 tại chiến trường Bình Trị Thiên đang diễn ra vô cùng ác liệt. Tác phẩm thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước đồng thời khẳng định sự thống nhất giữa cái chung với cái riêng, giữa cá nhân với cộng đồng. Trong khi đó, Tạ Hữu Yên lại là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội. Ông viết nhiều và viết rất hay về đề tài người lính và chiến tranh. Bài thơ Đất nước được ông sáng tác vào tháng 9/2005 để chào mừng Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ X. Bài thơ đã khắc họa hình tượng đất nước có bề dày lịch sử bốn nghìn năm trải qua biết bao thăng trầm biến cố nhưng vẫn vững vàng đi lên. Qua hai bài thơ trên ta thấy cả hai nhà thơ đều bày tỏ niềm tự hào sâu sắc về truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên mỗi bài thơ lại mang những nét đặc sắc riêng biệt.
Đầu tiên ở khổ đầu của bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta bắt gặp một hình ảnh đất nước thật gần gũi, thân quen gắn liền với không gian sinh hoạt hằng ngày của con người:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Nhà thơ đã đưa ra quan niệm về đất nước thật độc đáo. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà đất nước tồn tại ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi người. Đất nước bắt nguồn từ những câu chuyện cổ tích thần thoại xa xưa, từ phong tục ăn trầu, thói quen búi tóc quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam, từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm kiên cường, từ những lời răn dạy về lối sống thủy chung son sắt,... Tất cả những điều ấy đã tạo nên một đất nước vừa thân quen, gần gũi, vừa thiêng liêng cao đẹp. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm cũng như muốn nhắc nhở tới bạn đọc rằng hãy yêu lấy quê hương xứ sở bởi nó luôn hiện diện trong từng hành động, cử chỉ, nếp nghĩ, nếp sinh hoạt của mỗi người.
Còn đối với Tạ Hữu Yên, hình ảnh đất nước lại hiện lên với vẻ đẹp của chiều dài lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước:
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những biểu tượng mêng mông như biển Đông, rộng lớn như núi non
Nhưng cũng thật hiền hòa, dịu dàng như dòng sông xanh
Và rực rỡ, huy hoàng như các mùa hoa
Ở đây, tác giả đã nêu bật những vẻ đẹp khác nhau của đất nước thông qua việc sử dụng biện pháp tu từ điệp cấu trúc "đất nước...". Những tính từ miêu tả được sử dụng liên tiếp càng làm nổi bật hơn nữa những vẻ đẹp đa dạng của Tổ Quốc. Bốn nghìn năm lịch sử đã giúp cho đất nước trở nên vĩ đại, to lớn, khiến cho mọi vật trên đất nước này cũng trở nên kỳ vĩ, tráng lệ. Và dù có thay đổi như vậy nhưng đất nước vẫn luôn hiền hòa, dịu dàng như dòng sông xanh, rực rỡ, huy hoàng như các mùa hoa. Có thể nói, nhờ có lịch sử lâu đời mà đất nước ta mới có được vẻ đẹp tuyệt vời đến vậy.
Như vậy, nếu như ở khổ thơ đầu tiên của bài thơ "Đất nước", Nguyễn Khoa Điềm tập trung khai thác khía cạnh đất nước gần gũi, thân quen thì ở khổ thơ đầu tiên của bài thơ "Đất nước", Tạ Hữu Yên lại nhấn mạnh vẻ đẹp vĩ đại, uy nghi của đất nước. Cả hai nhà thơ đều đã đem đến cho bạn đọc những cảm nhận mới mẻ về hình tượng đất nước.