phần:
: : Văn bản được kể theo ngôi thứ ba. : Ba điển cố, điển tích được sử dụng trong đoạn trích trên: - "Tương Như" - "Vương Chiêu Quân" - "Đỗ Quyên" : Tâm trạng người vợ: - Nỗi buồn nhớ quê hương da diết, khắc khoải khôn nguôi. - Nỗi cô đơn, trống trải trong cảnh ngộ xa xứ. - Sự bất hạnh vì không được sống với người mình yêu thương. : Vai trò của yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm: - Tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn cho câu chuyện. - Làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật. - Thể hiện quan niệm về cuộc đời, con người của tác giả. : Suy nghĩ về lòng thủy chung trong tình yêu: - Lòng thủy chung là nền tảng của mọi mối quan hệ tình cảm. - Người có lòng thủy chung sẽ luôn biết trân trọng, gìn giữ tình yêu của mình. - Lòng thủy chung giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đi đến bến bờ hạnh phúc.
phần:
: : Văn bản được kể theo ngôi thứ nhất. Người kể chuyện xưng "tôi" : Các điển cố, điển tích được sử dụng trong đoạn trích: + Vị ngọc tiên: Ngọc Tiên là tên gọi khác của Dương Quý Phi, một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa. Bà nổi tiếng xinh đẹp, thông minh, giỏi cầm kỳ thi họa, đặc biệt là khả năng ca hát. + Dương Thái Chân: Dương Thái Chân là một vũ công nổi tiếng thời Tống, được mệnh danh là "Thần Nữ". Cô được biết đến với vẻ đẹp tuyệt trần và kỹ năng múa điêu luyện. + Vị ngọc tiên: Ngọc Tiên là tên gọi khác của Dương Quý Phi, một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa. Bà nổi tiếng xinh đẹp, thông minh, giỏi cầm kỳ thi họa, đặc biệt là khả năng ca hát. + Dương Thái Chân: Dương Thái Chân là một vũ công nổi tiếng thời Tống, được mệnh danh là "Thần Nữ". Cô được biết đến với vẻ đẹp tuyệt trần và kỹ năng múa điêu luyện. + Vị ngọc tiên: Ngọc Tiên là tên gọi khác của Dương Quý Phi, một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa. Bà nổi tiếng xinh đẹp, thông minh, giỏi cầm kỳ thi họa, đặc biệt là khả năng ca hát. + Dương Thái Chân: Dương Thái Chân là một vũ công nổi tiếng thời Tống, được mệnh danh là "Thần Nữ". Cô được biết đến với vẻ đẹp tuyệt trần và kỹ năng múa điêu luyện. : Tâm trạng của người vợ được miêu tả qua các chi tiết sau: + Một hôm, phu nhân đốt đèn ngồi một mình, khi ấy là mùa thu muộn, gió vàng hìu hắt, cây khuya xào xạc, sâu tường nỉ non, tiếng đập vải lạnh lùng như giã vào lòng người cô phụ, trăng suông như rọi vào giọt lệ vương sinh. Nỗi thương tâm khiến phu nhân đờ đẫn, nhìn đâu cũng toàn thấy âu sâù. + Phu nhân càng thêm thê thảm, gục xuống bàn mà nức nở khiến cõi lòng chìm sâu vào cõi đê mê. Trong cơn dật dờ đó thấy một người khăn vuông đai rộng từ xa tới gần, nhìn kĩ hóa ra là chính chồng vâỵ. Phu nhân đón chào, mừng quả chảy nước mắt mà rằng: - từ khi cách biệt đã bốn năm rôì, biết bao nỗi sầu bi, mộng hồn tản mát, không nơi nào là không tìm tung tích lang quân, ấy thế mà lang quân chẳng có đoái hoài gì đến thiếp. nếu bảo rằng trần gian và thiên thượng hai nơi cách biệt, thì sao thuẫn phi) có hội ngộ, chức nữ”) lại tương phùng, vậy lang quân đối với thiếp rất là bạc tình. Ông buồn nét mặt mà rằng: - ta từ khi về chầu thiên đình, được trông coi về việc bút nghiên, nơi thiên tào công việc nhiều, không có thì giờ đến thăm nàng, còn tấm lòng khăng khít thủy chung không bao giờ thay đôỉ. phu nhân muốn lưu ông ở lại tự tình. ông vỗ về noí: chết sống là lẽ thường xưa nay, hợp tan là tuần hoàn việc thể. vị ngọc tiên(3) có duyên tái hợp, dương thái chân(4) cơ ước lai sinh. nàng không cần phải bị phiền về nỗi hạc lảnh gương tan, cái ngày chúng ta gặp nhau gần đến rôì. nói xong, có một trận thanh phong, không biết ông biển đi đâu mất. phu nhân thương khóc chợt tỉnh dâỵ, sai thị nữ ra xem trời đất chỉ thấy sương mù trắng mờ, đêm đã gần sáng rôì. từ đó phu nhân lại càng có ý chán đời, nhưng chưa có dịp. đến ngày lễ tiểu tường(5) ông, người nhà bận việc, phu nhân ở trong buồng xé cái ảo mà ông tặng ngày trước tự thắt cổ chết. đến khi người nhà biết thì phu nhân đã tắt thở rôì. cả nhà thương cảm, tổng tảng theo lễ. việc ấy tàu lên, triều đình cho lập đền thờ, để bảng nêu ra cưả, khắc chữ “trinh liệt phu nhân từ”, ban cấp tế điền, bốn mùa có tế lễ, người làng cầu đảo đều có linh ứng. (trích người liệt nữ ở an ấp, truyền kì tân phả, đoàn thị điểm, in trong cuốn văn xuôi tự sự việt nam thời trung đaị, tập 1, nguyễn đăng na giới thiệu và tuyển soạn, nxb giáo dục, 1997, tr 344-357