Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay, có giá trị. Trong đó, "Nhàn" là bài thơ Nôm xuất sắc nhất, thể hiện rõ tâm hồn và con người của Trạng Trình. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh một lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm sống vui vẻ, hòa hợp với thiên nhiên, xa lánh vòng danh lợi ồn ào. Mở đầu bài thơ, ta thấy được một cuộc sống bình dị, đơn sơ mà đầy thanh tịnh nơi quê nghèo: "Một mai, một cuốc, một cần câu". Điệp từ "một" được lặp lại ba lần, nhằm nhấn mạnh sự giản dị, đơn sơ trong cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những dụng cụ lao động quen thuộc của người nông dân như mai, cuốc, cần câu giờ đây nằm gọn trong câu thơ, gợi lên một cuộc sống bình dị, chất phác. Tiếp đến, hai câu thực tiếp tục khắc họa bức tranh làng quê yên bình, êm ảu: "Thơ thẩn dầu ai vui thú nào", nhân vật trữ tình hiện ra với dáng vẻ ung dung, tự tại, không quan tâm đến những thú vui ngoài kia. Từ láy "thơ thẩn" kết hợp với nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng, diễn tả trạng thái thư thái, thong dong của con người. Câu thơ cuối cùng khép lại bài thơ bằng triết lí sâu sắc: "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao". Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, sử dụng thành ngữ độc đáo (nơi vắng vẻ, chốn lao xao) đã khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ sáng suốt của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông tìm về nơi thôn dã để giữ cho tâm hồn thanh cao, tránh xa vòng danh lợi đầy xô bồ, bon chen. Như vậy, qua bài thơ "Nhàn", ta thấy được một nhân cách sống đẹp, cao cả của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là tấm gương sáng ngời về lối sống thanh cao, trong sạch giữa xã hội phong kiến đầy rối ren, phức tạp.