Hoàng Thuận Câu 1:
Thể thơ: Đoạn trích "Chinh phụ ngâm khúc" được viết theo thể song thất lục bát.
Nhân vật trữ tình: Nhân vật trữ tình trong đoạn trích là người chinh phụ – người vợ nhớ mong chồng đang chinh chiến nơi xa.
Câu 2:
Những từ ngữ diễn tả không gian gắn liền với hình ảnh người chinh phu trong đoạn trích là: "miền khơi", "dặm trường mây phủ". Các từ ngữ này gợi lên hình ảnh người chinh phu phiêu bạt, xa cách, mãi miết chinh chiến ở nơi xa xôi, đầy nguy hiểm.
Câu 3:
Hai câu thơ:
"Xưa sao hình ảnh chẳng rời?
Giờ sao nỡ để cách với Sâm, Thương?"
Biện pháp nghệ thuật đối được sử dụng rõ ràng ở hai câu thơ này: "Xưa sao hình ảnh chẳng rời?" đối với "Giờ sao nỡ để cách với Sâm, Thương?".
Tác dụng: Biện pháp đối trong hai câu thơ này nhấn mạnh sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại. Nếu như trong quá khứ, hình ảnh của hai vợ chồng luôn gắn bó, không rời, thì giờ đây, khoảng cách vĩnh viễn như hai chòm sao Sâm và Thương đã khiến họ chia xa. Sự đối lập này làm tăng thêm nỗi xót xa, đau đớn của người chinh phụ khi nhớ đến tình cảm mặn nồng trước kia giờ đã trở nên xa cách.
Câu 4:
Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn trích là nỗi buồn tủi, nhớ thương, đau đớn và cô đơn. Người chinh phụ mang trong mình nỗi sầu muộn vì chồng phải đi xa trong một thời gian dài, khao khát một ngày được đoàn tụ nhưng lại cảm thấy sự chia xa dường như vô tận.
Câu 5:
Qua tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích, ta hiểu thêm về giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với nỗi cô đơn, nhớ nhung của những người phụ nữ có chồng chinh chiến trong xã hội phong kiến. Nỗi buồn của người chinh phụ chính là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây ra nhiều đau khổ cho con người, làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi. Tác phẩm đề cao tình yêu, khát vọng sống đoàn tụ của con người, đặc biệt là tiếng lòng của người phụ nữ đòi quyền được yêu thương và hạnh phúc trong cuộc sống.