Nguyễn Công Hoan (1903-1977) quê gốc ở làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra tại quê mẹ ở thôn Đại Định, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình quan lại nho học thất thế. Cha ông là Nguyễn Công Hiền, đỗ phó bảng đời vua Thành Thái, làm đốc học Hải Dương rồi thăng lên Tổng đốc Thanh Hóa. Mẹ ông là bà Đỗ Thị Tùy.
Thuở nhỏ, Nguyễn Công Hoan theo học trường trung học Albert Sarraut ở Hà Nội. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, được bổ dạy ở các trường Bạch Mai, Cao Xuyên, Lương Ngọc Quyến... Từ năm 1935, ông thôi dạy học, làm báo và viết văn chuyên nghiệp.
Năm 1936, Nguyễn Công Hoan tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Năm 1938, ông tham gia Đảng Xã hội Pháp, hoạt động trong Hội Ái hữu thợ dệt, Hội Truyền bá quốc ngữ, Hội Phóng thích tù chính trị... Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan giữ chức Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc dân Giáo dục và Mỹ thuật trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến.
Từ năm 1948 đến năm 1952, ông lần lượt giữ các chức vụ: Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật và Thư viện; Cục trưởng Cục Thông tin khu XII; Giám đốc Sở Tuyên truyền Liên khu IV. Trong giai đoạn này, ông đã cùng nhà thơ Tố Hữu vượt Trường Sơn vào miền Nam để vận động văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến chống Pháp.
Sau năm 1954, Nguyễn Công Hoan tiếp tục hoạt động văn học nghệ thuật phục vụ cách mạng. Ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam từ khóa đầu tiên (năm 1957), là đại biểu Quốc hội các khoá I, II, III và IV. Ông mất ngày 6/6/1977 tại Hà Nội.
Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Công Hoan gồm có: Kép Tư Bền (tiểu thuyết, 1935); Bước đường cùng (truyện ngắn, 1938); Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1943); Người chó (tập truyện ngắn, 1943); Một đêm xuân (hài kịch, 1944); Cái tủ chè (tiểu thuyết, 1944)...
Trong số đó, tiểu thuyết Bước đường cùng là tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Công Hoan. Tác phẩm được đăng tải lần đầu trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy vào năm 1938. Đến năm 1940, tác phẩm được in thành sách do nhà xuất bản Tân Dân ấn hành.
Bước đường cùng là cuốn tiểu thuyết phản ánh rõ nét nhất quá trình giác ngộ cách mạng của tầng lớp trí thức tiểu tư sản tiến bộ. Nhân vật chính của tác phẩm là anh Pha - một thanh niên nông dân nghèo bị bọn cường hào địa chủ đẩy vào bước đường cùng phải đi cướp thóc phát để nuôi vợ con. Qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác tày trời của chế độ thực dân nửa phong kiến đã dồn ép người nông dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa.
Cuốn tiểu thuyết còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân dù bị áp bức bóc lột dã man vẫn luôn hướng về cách mạng, khát khao tự do, hạnh phúc. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện tấm lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của nhà văn Nguyễn Công Hoan.
Bà lái đò là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Công Hoan. Truyện kể về cuộc đời của một người đàn bà nghèo khổ, bất hạnh tên là Bà Lụa. Bà Lụa là một người phụ nữ hiền lành, chất phác, nhưng lại phải chịu đựng bao nhiêu cay đắng, tủi nhục trong cuộc đời. Chồng bà là một người nghiện rượu, thường xuyên đánh đập bà. Con trai bà thì ham chơi, không lo học hành. Cuộc sống của bà Lụa chỉ trông chờ vào chiếc đò nhỏ mà bà chèo thuê trên sông.
Một hôm, bà Lụa gặp một người khách lạ. Người khách ấy là một chàng trai trẻ, tên là Hùng. Hùng là một người con trai giàu có, nhưng lại rất tốt bụng. Anh ta thấy hoàn cảnh của bà Lụa rất đáng thương nên đã quyết định giúp đỡ bà. Hùng đã mua cho bà Lụa một chiếc đò mới, to hơn, chắc chắn hơn. Anh ta cũng hứa sẽ giúp bà Lụa kiếm tiền bằng cách chở khách du lịch trên sông. Nhờ có sự giúp đỡ của Hùng, cuộc sống của bà Lụa đã thay đổi hẳn. Bà không còn phải lo lắng về miếng ăn, chỗ ở nữa. Bà có thể dành dụm được chút ít tiền để lo cho tương lai của mình. Tuy nhiên, tình cảm giữa bà Lụa và Hùng không được suôn sẻ. Hùng là một người con trai đào hoa, đa tình. Anh ta đã có vợ con đàng hoàng. Vì vậy, mối quan hệ giữa hai người chỉ dừng lại ở mức bạn bè. Cuối cùng, Hùng đã lấy vợ và rời xa bà Lụa. Bà Lụa trở lại cuộc sống cô đơn, lẻ loi như trước đây. Nhưng bà không còn buồn bã như xưa nữa. Bà đã biết cách tự lập, tự lo cho bản thân mình. Bà cũng đã tìm được niềm vui trong công việc chèo đò.
Truyện Bà lái đò đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Ông đã lên án xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã đẩy người phụ nữ vào cảnh khốn cùng. Ông cũng đã ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững phẩm chất cao quý của mình.