15/12/2024
15/12/2024
15/12/2024
Lực lượng vũ trang ba thứ quân và lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam không phải là một. Lực lượng vũ trang ba thứ quân là một khái niệm trong quân đội, bao gồm quân đội, dân quân tự vệ và cảnh sát quân đội. Trong khi đó, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là một thuật ngữ chỉ đến lực lượng quân đội và dân quân tự vệ của Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự khác biệt giữa hai lực lượng này là: 1. Lực lượng vũ trang ba thứ quân bao gồm quân đội, dân quân tự vệ và cảnh sát quân đội, trong khi lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam chỉ bao gồm quân đội và dân quân tự vệ. 2. Lực lượng vũ trang ba thứ quân có thể bao gồm các lực lượng an ninh và cảnh sát, trong khi lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam tập trung chủ yếu vào quân đội và dân quân tự vệ để bảo vệ độc lập, tự do và chủ quyền của đất nước.
15/12/2024
Lê Trần Khánh VânTổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã lật đổ chế độ thực dân - phong kiến, dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đây là dấu mốc đặc biệt quan trọng trên con đường phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Nhân tố quyết định thắng lợi vĩ đại đó chính là sự đoàn kết một lòng của toàn dân tộc, với ý chí quyết tâm cao, triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương; trong đó, lực lượng vũ trang “ba thứ quân” giữ vai trò nòng cốt. Theo đó, các đơn vị Giải phóng quân, lực lượng vũ trang cách mạng địa phương, tự vệ, du kích - tiền thân của lực lượng vũ trang ba thứ quân hiện nay - đã nhanh chóng phát triển rộng khắp. Trước khi Tổng khởi nghĩa, đã có hàng chục đại đội, trung đội Giải phóng quân là bộ đội chủ lực hoặc bộ đội địa phương ở các tỉnh, huyện thuộc khu giải phóng Việt Bắc (khoảng 5.000 chiến sĩ); nhiều đội du kích tập trung ở các chiến khu và căn cứ vũ trang khác; hàng vạn tự vệ, du kích chiến đấu ở các làng, xã, xí nghiệp, đường phố. Trong Tổng khởi nghĩa, lực lượng đó đã tích cực, chủ động tuyên truyền, đấu tranh, tiêu diệt địch, thu vũ khí. Đặc biệt, tại một số địa phương, lực lượng vũ trang cách mạng đã hỗ trợ, mở đường cho đội quân chính trị to lớn của quần chúng nhân dân nhất tề vùng lên, giành chính quyền. Nhờ đó, chỉ trong gần hai tuần lễ nửa cuối tháng 8-1945, bằng sức mạnh như vũ bão, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các ủy ban khởi nghĩa trực tiếp chỉ huy, lực lượng vũ trang “ba thứ quân” đã cùng nhân dân cả nước nổi dậy đánh đổ hoàn toàn quân Nhật và chính quyền tay sai, thiết lập chính quyền mới của nhân dân trên phạm vi cả nước. Như vậy, trong thắng lợi của Tổng khởi nghĩa, cùng với sức mạnh của toàn dân, lực lượng vũ trang cách mạng “ba thứ quân” giữ vai trò nòng cốt, tiên phong, dẫn dắt, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền, được biểu hiện cụ thể ở các nội dung chủ yếu sau:
1. Lực lượng vũ trang “ba thứ quân” làm nòng cốt trong truyên truyền, vận động nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ cho quần chúng nổi dậy. Bước vào năm 1945, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển mau lẹ theo hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 09-3-1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp ở Đông Dương, nhưng chỉ hai tháng sau, phát xít Nhật trở thành kẻ bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ II. Chớp thời cơ, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh phát động Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Các đơn vị Giải phóng quân đã nhanh chóng tỏa về các địa phương, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang tại chỗ, các đội du kích, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân hưởng ứng, nổi dậy giành chính quyền. Tại các địa bàn trọng yếu, lực lượng vũ trang “ba thứ quân” đã trở thành các mũi xung kích, đi đầu trong việc tuyên truyền để toàn thể nhân dân nhận rõ thời cơ “có một không hai” của cách mạng, thực hiện các phương pháp đấu tranh phù hợp với tình hình, đối tượng. Theo đó, mục tiêu của Tổng khởi nghĩa là đánh đổ phát xít Nhật và chính quyền bù nhìn của chúng, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quá trình vận động, tuyên truyền, lực lượng vũ trang “ba thứ quân” luôn sát cách cùng quần chúng; kiên trì giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong các tầng lớp nhân dân, giải thích rõ chính quyền cách mạng là của ai, vì ai. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh, vô hiệu hóa các tổ chức phản động, chống phá cách mạng, v.v. Đây thực sự là cuộc vận động lớn, trực tiếp, thiết thực và hiệu quả nhất để toàn thể nhân dân các địa phương thấy rõ kẻ thù đấu tranh lúc này, đồng loạt nổi dậy phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng diệt quân Nhật, vô hiệu hóa và lật đổ chính phủ bù nhìn thân Nhật, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
Cùng với đó, lực lượng vũ trang “ba thứ quân” còn tích cực làm công tác địch vận, phân hóa hàng ngũ kẻ thù; khích lệ, động viên những người lầm đường, lạc lối đi theo cách mạng. Nhờ đó, nhiều công chức của chính quyền tay sai đã quay sang làm việc phục vụ cách mạng; nhiều binh lính địch không tuân lệnh chỉ huy, cung cấp tin tức và làm nội ứng cho ta, góp phần tạo ra một cuộc vận động vừa âm thầm, vừa sục sôi ngay trong hàng ngũ địch.
2. Lực lượng vũ trang “ba thứ quân” với vai trò xung kích, chủ lực trong đấu tranh vũ trang, trực tiếp xóa bỏ chính quyền địch, góp phần đưa cách mạng đến thành công. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, mặc dù buộc phải đầu hàng quân đồng minh, nhưng lực lượng quân đội Nhật ở Đông Dương vẫn còn đông (trên 06 vạn tên). Ở một số nơi, chúng chưa chịu buông vũ khí, thậm chí còn ra tay đàn áp phong trào cách mạng. Đây là đối tượng trực tiếp và chủ yếu mà cuộc cách mạng phải loại bỏ. Bởi, nếu không vô hiệu hóa đội quân này, thì chúng sẽ là chỗ dựa để các lực lượng cơ hội, phản động thừa cơ chống cự, khiến Tổng khởi nghĩa phải kéo dài, bất lợi. Không những thế, việc kéo dài sự tồn tại của quân Nhật sẽ tạo cớ để quân đồng minh tiến vào giải giáp, khi đó chúng ta không chỉ mất thời cơ thuận lợi để giành chính quyền, mà Tổng khởi nghĩa có thể chuyển sang một tình thế khác, thậm chí phải mất nhiều thời gian và lực lượng để tiêu diệt kẻ thù mới của dân tộc. Trước tình hình đó, Tổng bộ Việt Minh và các ủy ban khởi nghĩa đã chỉ đạo các đơn vị Giải phóng quân và du kích từ căn cứ địa, các chiến khu và căn cứ vũ trang nhanh chóng tỏa về các địa phương, phối hợp chặt chẽ với lực lượng tại chỗ, các tổ (đội) bán vũ trang tổ chức trấn áp, tiêu diệt địch ở các mục tiêu trọng yếu, tạo điều kiện và cùng với quần chúng nhân dân trực tiếp xóa bỏ chính quyền địch, tổ chức chính quyền cách mạng.
Thực hiện chủ trương đó, tại Việt Bắc, một đơn vị chủ lực Giải phóng quân từ Tân Trào tiến về Thái Nguyên đánh địch, phối hợp với quần chúng thiết lập chính quyền cách mạng ở đây, sau đó tiến thẳng về Hà Nội. Tại các địa phương, như: Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Cạn, Yên Bái, Tuyên Quang,… các đơn vị Giải phóng quân đều tập trung lực lượng, cơ động tiến công giải phóng các tỉnh lỵ. Đặc biệt, tại tỉnh Quảng Ngãi, từ chiến khu Vĩnh Sơn, Núi Lớn, hai đại đội du kích: Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám, với quân số hạn chế, vũ khí thô sơ, nhưng với quyết tâm cao đã lần lượt tiến đánh và giải phóng các huyện lỵ, các đồn: Ba Tơ, Minh Long, tiến tới làm chủ tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Có thể nói, trong thời khắc đó, sự xuất hiện và tổ chức hoạt động đấu tranh vũ trang của lực lượng vũ trang “ba thứ quân” trên các địa bàn không chỉ cổ vũ toàn dân vùng lên, mà còn khiến kẻ địch khiếp sợ, đầu hàng và nhanh chóng thất bại. Đây là một trong những nét độc đáo về hoạt động phối hợp đấu tranh vũ trang của lực lượng vũ trang “ba thứ quân” trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, góp phần quan trọng, trực tiếp giành chính quyền về tay nhân dân ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.
Lê Trần Khánh Vân
15/12/2024
Cái này mình mới đọc trên mạng xong nè
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
10/06/2025
10/06/2025
Top thành viên trả lời