câu 1: - Từ "thầy" là một danh từ chỉ người có chức vụ và địa vị cao hơn mình. Trong bài thơ này, tác giả sử dụng từ "thầy" để thể hiện sự tôn trọng đối với những người có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mình.
- Các từ "phán", "kí", "thông" đều mang ý nghĩa tiêu cực, ám chỉ những người có chức vụ nhưng không có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Tác giả sử dụng những từ ngữ này để châm biếm, phê phán những kẻ có chức quyền nhưng lại tham lam, ích kỷ, vô trách nhiệm.
câu 1: Tiếng cười trào phúng trong bài thơ nhằm tới những nhân vật: quan lại, thầy đồ dốt nát.
câu 2: - Các nhân vật trong bài thơ mong muốn có được một cuộc sống giàu sang, phú quý. Họ mơ ước về một cuộc sống không phải lo lắng về tiền bạc, có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của bản thân và gia đình. Những mong ước này xuất phát từ lòng tham lam, ích kỷ và thiếu hiểu biết. Họ cho rằng chỉ cần có nhiều tiền là sẽ hạnh phúc, nhưng thực tế lại không phải như vậy. Tiền bạc không thể mua được tình yêu thương, sự tôn trọng hay hạnh phúc thật sự. Vì vậy, những mong ước ấy đáng chê cười bởi chúng dựa trên những giá trị sai lầm và không mang lại ý nghĩa thực sự cho cuộc sống.
câu 3: Phép đối được sử dụng trong hai câu thực đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đặc sắc, góp phần thể hiện sự tương phản giữa hình ảnh và tính cách của nhân vật: - Sự tương phản về ngoại hình: + "Lưng dài rộng": gợi lên một thân hình to lớn, vạm vỡ nhưng lại có chiều ngang hẹp, khiến cho người ta cảm thấy không cân đối. + "Cặp mắt to": miêu tả đôi mắt to tròn, sáng long lanh như muốn nhìn thấu mọi thứ. Tuy nhiên, khi kết hợp với "lưng dài rộng", nó lại trở thành điểm nhấn bất thường, gây ấn tượng mạnh mẽ. - Tương phản về tính cách: + "Tính tình ngay thẳng": thể hiện sự trung thực, chính trực của nhân vật. + "Nhưng hay nói dối": mâu thuẫn với tính cách ban đầu, tạo ra sự bất ngờ và hài hước. Hai câu thơ này đã tạo nên một bức tranh châm biếm đầy thú vị, giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của con người. Nó cũng là lời cảnh tỉnh cho những ai quá tự tin vào vẻ bề ngoài mà quên đi phẩm chất bên trong.
câu 4: Tác giả đã sử dụng rất nhiều số từ để miêu tả cảnh vật thiên nhiên và con người ở Huế: "mấy chùm", "ba chiều", "một giọng", "hai mươi bốn" nhằm nhấn mạnh sự phong phú, đa dạng về màu sắc, đường nét, âm thanh,...của xứ Huế mộng mơ.
câu 5: - Giọng điệu của tiếng cười trào phúng: mỉa mai, châm biếm. - Dấu hiệu: + Sử dụng từ ngữ có sắc thái hài hước như "lọng cắm rợp trời", "quan sứ đến" để miêu tả sự phô trương, lố bịch của quan lại thời phong kiến. + Hình ảnh đối lập giữa cảnh đón tiếp trang nghiêm và thực tế nghèo khổ của người dân.
câu 6: Hai câu thực: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song". Hình ảnh sóng gợn trên sông được nhân hóa qua từ láy "điệp điệp" gợi ra nỗi buồn triền miên, không dứt. Nỗi buồn ấy như trải dài vô tận cùng dòng sông. Trên dòng sông mênh mông, con thuyền nhỏ bé trở nên lạc lõng, cô đơn khi chỉ có một mình nó xuôi mái. Từ "song song" cho thấy sự chia lìa, xa cách của con thuyền với dòng nước. Hai câu luận: "Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng". Hình ảnh đối lập giữa thuyền và nước khiến ta liên tưởng đến cuộc đời mỗi người đều phải tìm cho mình hướng đi riêng. Tuy nhiên, hình ảnh củi khô lại càng tô đậm thêm sự cô độc, lẻ loi. Cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước mênh mông cũng giống như thân phận trôi nổi, bấp bênh của con người trong xã hội cũ vậy. Như vậy, hai câu thực và hai câu luận đã khắc họa bức tranh thiên nhiên rộng lớn nhưng đượm buồn. Đồng thời, thể hiện tâm trạng cô đơn, trống vắng của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đó.