Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay, có giá trị. Trong đó, "Nhàn" là bài thơ Nôm xuất sắc, thể hiện rõ tâm hồn, tình cảm và nhân cách của nhà thơ. Trước hết, ta thấy hiện lên trong bài thơ là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sống động với đủ âm thanh, màu sắc, hình ảnh: "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào". Đó là những hình ảnh bình dị, thân thuộc ở làng quê Việt Nam. Điệp số từ "một" được lặp lại ba lần gợi sự gần gũi, thân quen. Những công cụ lao động ấy cũng chính là dấu ấn của thời gian để lại trên khuôn mặt, đôi tay của nhà thơ. Tuổi tác không làm cho ông trở nên già nua mà chỉ khiến ông thêm phần giản dị, mộc mạc hơn thôi. Ở tuổi xế chiều, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn say mê với thú điền viên, vẫn gắn bó với cuộc sống nơi thôn dã. Không chỉ vậy, ông còn rất lạc quan, yêu đời. Dù đang sống trong cảnh nghèo khó nhưng ông vẫn ung dung, tự tại, không chút bận lòng. Câu thơ "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao" đã khắc họa chân thực cuộc sống sinh hoạt của nhà thơ. Cuộc sống tuy đạm bạc nhưng rất thanh cao, tao nhã. Đặc biệt, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một bậc đại nho luôn giữ cốt cách thanh cao, không màng danh lợi. Ông từng đỗ Trạng nguyên nhưng chỉ làm quan trong một thời gian ngắn rồi lui về ở ẩn. Điều này được thể hiện rõ nét qua hai câu thơ cuối: "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao". Nơi vắng vẻ là nơi dành cho những người hiền tài, an dưỡng tu chí. Còn chốn lao xao là nơi cửa quyền, bon chen, giành giật. Hai câu thơ đã khẳng định triết lí sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm: coi thường danh lợi, tiền tài, luôn giữ cốt cách thanh cao, xa lánh cõi trần tục đầy rẫy những xấu xa, cám dỗ. Như vậy, "Nhàn" là bài thơ hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống, tâm hồn và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.