Trong xã hội phong kiến xưa, số phận của người phụ nữ luôn là một dấu hỏi lớn. Những định kiến, những lễ giáo phong kiến đã đẩy họ vào cuộc đời đầy những chông gai và thử thách. Nhưng dù khó khăn đến đâu, ở họ vẫn ngời sáng những phẩm chất tốt đẹp, xứng đáng với câu ca dao: "Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai". Và Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương chính là đại diện tiêu biểu cho điều đó.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình nghèo khổ, nhưng nàng vừa có nhan sắc lại vừa có đức hạnh nên chồng nàng là Trương Sinh rất yêu thương. Tuy Trương Sinh là con nhà giàu nhưng không có học, tính tình lại đa nghi và hay ghen tuông. Biết tính chồng như vậy nên Vũ Nương luôn cư xử đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép. Chính vì thế mà gia đình lúc nào cũng êm ấm, hòa thuận.
Hồng quân nhất xuất, thiên hạ giai lão (Lấy nhau vừa tuổi, trăm năm dài lâu). Vợ chồng Vũ Nương lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra binh biến. Trương Sinh bị bắt đi lính, xa cách vợ con. Lúc chia tay, hai người cùng thề ước dưới ánh lửa của ngọn đèn thần: "Nếu chẳng may phải gặp buổi chia phôi thì ... sau này ... cùng trông lên trời cao mà cùng nhớ về nhau".
Những ngày đầu xa chồng, Vũ Nương vô cùng buồn tủi và cô đơn. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng đau đớn, sầu muộn. Nàng xót xa cho thân phận mình, thương cho đứa con còn nhỏ dại chưa từng được gặp mặt cha. Nhưng nàng vẫn một lòng thủy chung với chồng: "Ba năm hè trưởng,i côi cút làm duyên với bóng nến, hãng ngày qua tháng lại nuôi cái cùng con".
Rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, quả nhiên Trương Sinh trở về. Tin thắng trận vang khắp nơi khiến chàng vô cùng vui mừng. Chàng hăm hở trở về nhà để đoàn tụ với vợ con. Nhưng trớ trêu thay, khi mới đặt chân tới nhà, chàng nghe tin mẹ già đã mất, vô cùng đau khổ, chàng bế bé Đản ra thăm mộ mẹ. Khi nhìn thấy vết sẹo trên gương mặt của bé Đản, chàng liền nổi giận đùng đùng, cho rằng vợ mình hư hỏng, không giữ gìn khuôn phép, đã có người khác bên ngoài. Mặc cho Vũ Nương hết lời phân trần, hàng xóm khuyên can, chàng vẫn không tin. Cuối cùng, chàng đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin, khóc lóc. Vì quá đau đớn và tủi nhục, Vũ Nương đành nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Sau khi Vũ Nương chết, mỗi đêm bé Đản đều chỉ tay lên chiếc bóng của Trương Sinh trên tường và nói rằng đây chính là cha của nó. Lúc này Trương Sinh mới hiểu ra mình đã mắc một sai lầm khủng khiếp. Thì ra nguyên nhân dẫn đến nỗi oan khuất của vợ là do chàng. Chàng đã quá đa nghi, không cho vợ cơ hội thanh minh. Chàng quá ích kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản thân mình. Chàng đã nhẫn tâm đẩy vợ vào chỗ chết. Quá ân hận nhưng đã quá muộn màng, Trương Sinh bèn cất lời than:
"Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".
Câu chuyện kết thúc bằng việc Phan Lang nằm mộng rồi thả con rùa và sau đó được cứu sống. Tình cờ gặp Vũ Nương dưới thủy cung, Phan Lang đã chuyển lời nhắn của nàng tới Trương Sinh. Trương Sinh lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương hiện về trong giây lát rồi biến mất.
Như vậy, Vũ Nương là nạn nhân của chế độ nam quyền, mà ở đó tư tưởng trọng nam khinh nữ là chủ yếu. Chính chế độ nam quyền độc đoán này đã sản sinh ra những người đàn ông vũ phu, độc đoán, bạc nhược như Trương Sinh. Cũng chính chế độ nam quyền đã tạo ra những người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát như Vũ Nương. Nhưng đồng thời, chế độ nam quyền ấy cũng dung túng cho sự tàn bạo, độc ác của những kẻ như Trương Sinh, gây ra bao nhiêu bất công, ngang trái cho người phụ nữ.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Nếu không có chiến tranh, nếu Trương Sinh không phải đi lính thì liệu Vũ Nương có phải chịu nỗi oan khuất tày trời? Chiến tranh đã chia cắt hạnh phúc lứa đôi, gia đình. Chiến tranh đã cướp đi mạng sống của bao người dân vô tội. Chiến tranh đã gieo rắc bao đau thương, tang tóc cho dân tộc ta suốt mấy mươi năm trời.
Qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ muốn tố cáo xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Đồng thời, ông cũng bày tỏ thái độ xót xa, cảm thông đối với số phận bi thảm của người phụ nữ. Ông trân trọng vẻ đẹp của họ và lên tiếng bảo vệ quyền sống, quyền hạnh phúc của họ. Đó chính là giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc của tác phẩm.