bài 10: Quá trình hình thành chủ nghĩa đế quốc ở các nước Âu - Mỹ vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX có những nét chính sau:
1. Phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: Khoảng 30 năm cuối của thế kỉ XIX, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh chóng. Sự cạnh tranh gay gắt dẫn tới quá trình tập trung sản xuất và tư bản, dần hình thành các công ti độc quyền lớn, dưới các hình thức khác nhau, như các-ten, xanh-đi-ca (ở Anh, Pháp, Đức); tơ-rớt (ở Mỹ),… Các công ti độc quyền đã lũng đoạn thị trường và nền kinh tế, chi phối đời sống chính trị và xã hội ở mỗi nước.
2. Tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng: Sự dung hợp giữa tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng đã hình thành nên tư bản tài chính, góp phần quan trọng trong việc phát triển chủ nghĩa đế quốc.
3. Xâm lược và bóc lột thuộc địa: Mặt khác, các nước tư bản phương Tây đều đẩy mạnh xâm lược, khai thác và bóc lột thuộc địa. Điều này đã tạo nên sự phân hóa giữa các nước đế quốc, hình thành các đế quốc "già" và "trẻ". Đức, Mỹ, Nhật vươn lên mạnh mẽ về kinh tế nhưng có rất ít thuộc địa (đế quốc "trẻ"). Trong khi đó, Anh, Pháp thì kinh tế phát triển chậm lại nhưng có nhiều thuộc địa (đế quốc "già").
4. Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị: Sự phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến sự phân hóa giữa các nước đế quốc cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Điều này đã làm thay đổi sâu sắc so sánh lực lượng giữa các đế quốc, hình thành các đế quốc "già" và "trẻ".
Tóm lại, quá trình hình thành chủ nghĩa đế quốc vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX là kết quả của sự phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, sự phân hóa giữa các nước đế quốc và sự xâm lược, bóc lột thuộc địa của các nước tư bản phương Tây.
bài 11: Sự ra đời của giai cấp công nhân bắt nguồn từ sự phân chia xã hội trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp ở châu Âu. Khi công nghiệp hóa diễn ra, người lao động từ nông thôn di cư vào thành phố làm việc trong nhà máy và nhà xưởng. Họ làm việc trong điều kiện lao động khắc nghiệt, nhận lương thấp và không có quyền lợi xã hội. Điều này đã tạo ra sự phân chia rõ rệt giữa tư sản và công nhân, từ đó hình thành ra giai cấp công nhân.
Về Công xã Pari, đây là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 28 tháng 5 năm 1871. Công xã Pari đã mang ý nghĩa vô cùng lớn lao bởi đây là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới đã xóa bỏ được giai cấp tư sản và thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản. Đây là nhà nước đại diện cho giai cấp công nhân, giai cấp vô sản và là nhà nước duy nhất lấy chuyên chính vô sản làm định hướng chính trị. Công xã Pari cũng thể hiện sự sáng tạo hình thức nhà nước kiểu mới dựa trên cơ sở dân chủ vô sản và hoạt động lợi ích của đa số nhân dân lao động. Điều này đã tạo ra một hình ảnh của chế độ xã hội mới tiến bộ, cổ vũ nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn. Công xã Pari đã đập tan bộ máy nhà nước tư sản cũ, lập nên chuyên chính của giai cấp vô sản, và để lại nhiều bài học quý báu cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.