Lý giải Sự tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm Việt Bắc của Tố hữu và tiếng hát con tàu của chế Lan Viên

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Nguyễn T. Thương
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

30/01/2025

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ Tố Hữu tập trung thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của Đảng, cách mạng, đất nước và con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu có bài Việt Bắc. Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, giàu sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam. Ông có một phong cách thơ rõ nét, độc đáo đó là những suy tưởng, triết lý về tình yêu quê hương đất nước và nhân dân cách mạng. Bài thơ "Tiếng hát con tàu" là một minh chứng tiêu biểu cho điều này.

Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10/1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc - thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tác phẩm được đánh giá là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.

Bài thơ Tiếng hát con tàu được rút ra trong tập Ánh sáng và phù sa (1960). Tập thơ này được đánh giá là đã có bước phát triển mới về tư tưởng và nghệ thuật so với những tập thơ trước của Tố Hữu. Đây cũng chính là thời kỳ miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với niềm hân hoan phấn khởi và niềm tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đọc hai tác phẩm ta thấy cả hai đều mang đậm tính sử thi hào hùng, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của quân và dân ta. Tuy nhiên mỗi tác phẩm lại có những đặc sắc riêng:

Về nội dung: Cả hai bài thơ đều phản ánh không khí sôi nổi, hào hứng của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước sau ngày hòa bình lập lại. Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu tái hiện cảnh tượng chia tay đầy lưu luyến giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc khi họ rời căn cứ địa để trở về Hà Nội. Còn trong bài thơ Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên miêu tả hình ảnh con tàu chở hàng hóa và cán bộ từ Hà Nội lên Tây Bắc để xây dựng kinh tế mới. Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của tác giả đối với nhân dân Việt Bắc, nơi đã cưu mang, đùm bọc và giúp đỡ cách mạng trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Đồng thời, hai bài thơ cũng thể hiện niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Tuy nhiên, hai bài thơ cũng có những nét riêng biệt: Về nội dung, Việt Bắc là bài thơ trữ tình cách mạng, thể hiện tình cảm sâu nặng của tác giả đối với nhân dân Việt Bắc, còn Tiếng hát con tàu là bài thơ lãng mạn, thể hiện khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước của tuổi trẻ.

Về nghệ thuật, Việt Bắc sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống của nhân dân, còn Tiếng hát con tàu sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, ẩn dụ, so sánh,... để diễn tả tâm trạng của tác giả.

Về nội dung:

- Việt Bắc là khúc ca ân tình về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa là tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân tình, ân nghĩa của dân tộc Việt Nam.

- Tiếng hát con tàu là lời giục giã thế hệ trẻ lên đường xây dựng Tổ quốc, là khúc ca say mê, lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Về nghệ thuật:

- Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống của nhân dân.

- Tiếng hát con tàu sử dụng thể thơ tự do, giọng điệu phóng khoáng, bay bổng, ngôn ngữ giàu hình ảnh, ẩn dụ, so sánh,...

Nhìn chung, cả hai bài thơ đều là những tác phẩm xuất sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại. Chúng đã góp phần khẳng định vị trí của thơ ca Việt Nam trên bản đồ văn học thế giới.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Bé Monhg2

30/01/2025

 Bài thơ Tiếng hát con tàu thắp sáng trong lòng chúng ta ngọn lửa thiêng liêng về tình yêu Tổ quốc. Tiếng hát ân tình thủy chung vẫn còn làm mê say lòng người. Vì nó là bài học đẹp nhất và sâu sắc nhất.

Đi ta đi khai phá rừng hoang

       Hỏi núi non cao đâu sắt đâu vàng..

                                                     (Tố Hữu)

      Năm 1960, miền Bắc bước vào kế hoạch “5 năm lần thứ nhất” xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa. Trong bài thơ chúc Tết, Bác Hồ viết: “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”. Một phong trào cách mạng rộng lớn dâng lên động viên tuổi trẻ lên đường, đi đến mọi miền xa xôi của Tổ quốc, đến với chiến trường xưa với mơ ước biến Tây Bắc thành “hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc” (Phạm Văn Đồng).

      Phong trào cách mạng rộng lớn đã khơi gợi cảm hứng trong tâm hồn nhà thơ Chê Lan Viên với bao nghĩa tình thắm thiết về một vùng đất “thấm máu" và đồng bào Tây Bắc thân yêu. Bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên mang tiếng reo vui của thời đại được sáng tác vào thời gian này. Bài thơ được rút từ tập Ánh sáng và phù sa - một thành tựu thi ca xuất sắc của Chế Lan Viên.

1. Nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu và ý nghĩa nhan đề của bài thơ.

      Hình ảnh con tàu trong bài thơ là biểu tượng cho những cuộc lên đường đi tới những vùng đất xa xôi và thân yêu của đất nước. Thực tế cho đến ngày nay vẫn chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Gắn “tiếng hát” với “con tàu tạo thành nhan đề Tiếng hát con tàu để nói lên cảm hứng lãng mạn, niềm khao khát đi tới Tây Bắc, đi tới mọi miền xa xôi “vời vợi nghìn trùng” của Tổ quốc mà hiến dâng và phục vụ. Lên đường cùng với “con tàu” và “tiếng hát” với khát vọng đi xa, đi tới những chân trời mơ ước. Lên đường để vượt ra những cuộc đời quấn quanh chật hẹp đến với cuộc sống rộng lớn của nhân dân: “Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp - Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?...”. Đến với Tây Bắc là trở về với nhân dân, đến với cội nguồn hạnh phúc, là đến với chiến trường xưa “nơi máu rỏ, tâm hồn ta thấm đất”. Là đến với những con người cần cù, dũng cảm, nghĩa tình như anh du kích, em liên lạc, bà mế “lửa hồng soi tóc bạc” nuôi giấu cán bộ mà “Trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”, đến với cô gái vùng cao “Vắt xôi nuôi quân em giấu, giữa rừng...”. Đến với Tây Bắc là trở về với ân nghĩa thủy chung:

                                             Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ.

                                             Cỏ đón giếng hai, chim én gặp mùa.

                                             Như đứa trẻ tha đói lòng gặp sữa

                                             Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

       Không chỉ là đất nước gọi lên đường mà chính là sự thức nhận của lòng mình vẫy gọi: "Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”: là sự mong đợi của mẹ và em: “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ...”. Phần cuối bài thơ là tiếng hát say mê, phấn chân: “Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội - mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga...”. Đến với Tây Bắc là đến với chính mình, tự khẳng định mình:

                                             Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa

                                             Nay trở về, ta lấy lại vàng ta

       Tiếng hát con tàu còn là khúc ca tâm tình của người nghệ sĩ chân chính tự nguyện đến với cuộc sống cần lao, đến với suối nguồn của niềm vui, là đến với ánh sáng và phù sa cuộc đời đang “đổi sắc thay da”. Tây Bắc sẽ là nơi ươm hạt giống, làm nảy mầm những mùa hoa đẹp của thi ca:

                                             Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng.

                                             Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng?

                                             Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống

                                             Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.

       Có thể nói nhan đề Tiếng hát con tàu biểu trưng khá sinh động cho nội dung tình cảm chủ đạo của bài thơ. Cảm hứng chủ đạo ấy được mở rộng ra, nâng cao lên tầm suy tưởng triết lí, từ một vấn đề thời sự cụ thể, nhà thơ khẳng định một đạo lí sống đẹp, mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, tư cách công dân của người nghệ sĩ chân chính:

                                             ... Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến

                                             Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.

2. Bình giảng khổ thơ đề từ

     Đề từ là một hiện tượng ta thường bắt gặp đó đây. Tràng giang của Huy Cận, Người lái đò Sông Đà cùa Nguyễn Tuân, một số bài thơ của Xuân Diệu trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió đều có lời đề từ. Đề từ có lúc nói lên mục đích, động lực khơi nguồn cảm hứng, có lúc làm nổi bật cảm hứng chủ đạo bao trùm. Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, khổ thơ đề từ khái quát ý nghĩa của toàn bài:

                                             Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

                                             Khi lòng ta đã hóa những con tàu,

                                             Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

                                             Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?

       Trước hết phải khẳng định đây là một hồn thơ lãng mạn, cất cánh tung bay. Mỗi câu chữ và hình tượng dạt dào cảm xúc. Cấu trúc câu thơ là những câu hỏi tu từ đã để lại trong lòng người nhiều ấn tượng mãnh liệt. Tây Bắc là miền tây thân yêu của Tổ quốc ta, “Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng’’, nơi có nhiều tiềm năng, nơi có truyền thống anh hùng, nhân dân cần cù, dùng cảm và tình nghĩa, nhưng còn nghèo nàn lạc hậu. “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc” - nó tượng trưng cho những vùng rừng núi bao la của đất nước thân yêu như Việt Bắc, Tây Nguyên... đến với Tây Bắc là để lao động và xây dựng, khám phá và sáng tạo. Chi có thế đến với Tây Bắc và mọi miền xa xôi khác với điều kiện “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”. Lúc đầu là con tàu “đói những vành trăng” và về sau là con tàu “mộng tưởng’’. Sự nhận thức ấy là động lực để lên đường, với bao niềm vui phấn khởi và hi vọng. Đến với Tây Bắc là để lên đường, với bao niềm vui phấn khởi và hi vọng. Đến với Tây Bắc là để đền ơn đáp nghĩa, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, vừa là để khơi nguồn cho mọi sáng tạo: “Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”.

       Cuộc sống xây dựng rộng lớn trên miền Bắc trong những năm 60 là sự khơi nguồn hạnh phúc, là ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật và thơ. Tràn ngập giữa một không gian bao la là sức sống và niềm vui của thời đại, của hàng triệu con người: “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Không khí sôi động ấy được nói đến trong nhiều tập thơ cùng thời: “Đất nở hoa” cùa Huy Cận, “Gió lộng” của Tố Hữu:

                                             Sướng vui thay, miền Bắc của ta,

                                             Cuộc sống tưng bừng đổi sắc thay da.

                                                 (Trên miền Bẳc mùa xuãn - Tố Hữu)

       Thơ là hương sắc, là phù sa, là muối mặn cuộc đời. “Không có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Nghệ thuật chỉ có thể đơm hoa kết trái trong cuộc đời, khi người nghệ sĩ chân thành mở rộng lòng mình đón nhận ngọn gió thời đại, đem tâm hồn mình hòa nhập với cuộc sống của nhân dân. Khi Tiếng hát con tàu tâm tưởng nhà thơ hòa nhịp với tiếng hát rộn ràng “bốn bề” của Tổ quốc thì cũng là lúc người nghệ sĩ tự soi vào tâm hồn mình, mà thấy được bóng hình quê hương xứ sở. Có thề nói đó là sự hóa thân kì diệu: “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?”. Câu thơ vang lên đĩnh đạc tự hào. Một lần khác, ý tưởng cao đẹp này đã được tác giả Ánh sáng và phù sa diễn tả rất thơ:

                                             Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào

                                             Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ

                                             (Chim lượn trăm vòng)

       Trong khổ thơ đề từ này có hai càu thơ tường như có sự mâu thuẫn: “Lòng ta đã hóa những con tàu” rồi lại “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?” – kì thực rất hợp lí, thống nhất một cách biện chứng trong quy luật phát triển của tư tưởng và tình cảm và của sự sáng tạo nghệ thuật. Câu trên nói lên sự thức nhận và động lực. Câu dưới nói lên sự hóa thân. Đó là mối quan hệ nhân quả giữa văn chương và cuộc sống.

       Tóm lại, khổ thơ đề từ nói lên khát vọng lên đường và niềm tự hào của nhà thơ nguyện đem tài năng để hiến dâng và sáng tạo vì sự phồn vinh Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dâu. Nó cho ta thấy bản sắc thơ của Chế Lan Viên: sáng tạo hình ảnh đẹp, mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo. Nghệ sĩ và cuộc sống, cái tâm và cái tài, ngoại cảnh và nội tâm, hướng nội và hướng ngoại, tất cả đều tìm thấy sự hòa hợp thống nhất trong thơ. Cái đẹp của thơ trước hết là cái đẹp của một tấm lòng trang trải mà ta cảm nhận được qua lời đề từ và những vần thơ dào dạt say mê trong bài thơ Tiếng hát con tàu.

      Khổ thơ trên là cảm hứng, là tình yêu lớn, là tấm lòng đẹp của nhà thơ: “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?” - Tây Bắc là hình hài của Tổ quốc thân yêu. Yêu Tây Bắc cũng là yêu Tổ quốc. Tình cảm sâu nặng luôn luôn vang lên trong thơ Chế Lan Viên như một điệp khúc tự hào:

                                             Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt

                                             Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng

                                             Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết

                                             Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.

       Ngày nay, bài thơ Tiếng hát con tàu vẫn thắp sáng trong lòng chúng ta ngọn lửa thiêng liêng về tình yêu Tổ quốc. Tiếng hát ân tình thủy chung vẫn còn làm mê say lòng người. Vì nó là bài học đẹp nhất và sâu sắc nhất.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved