viết bài văn phân tích tác phẩn chợ đồng

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của phu123
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

16/03/2025

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Nhà thơ Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh năm 1918 tại thôn Thiệu Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong một gia đình nhà Nho nghèo. Mồ côi mẹ từ lúc còn nằm nôi, lên 10 tuổi Nguyễn Bính đã phải theo anh là Nguyễn Mạnh Phác (nhà văn Trúc Đường) ra Hà Nội giúp nhau kiếm sống. Nguyễn Bính ba lần vào Nam, để lánh chuyện bị chính quyền Pháp làm khó dễ. Nguyễn Bính đã đổi tên trong căn cước thành Nguyễn Bính Thuyết. Nguyễn Bính làm thơ khá sớm. Cô hái mơ là bài thơ dăng báo đầu tiên. Năm 1937, ông được giải thưởng Tự lực Văn đoàn vơi tập thơ Tâm hồn tôi. Từ đó, người đọc quý mến Nguyễn Bính bởi ông đã tạo được phong vị thơ đặc biệt cho mình: phong vị lục bát ca dao. Bài thơ Chợ Đồng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy.

Bài thơ Chợ Đồng viết về phiên chợ Đồng của làng quê, nơi tụ họp đông vui vào sáng mùng bốn Tết Nguyên đán. Phiên chợ này có từ lâu đời, hấp dẫn người bán, người mua từ nhiều vùng lân cận. Sau Cách mạng tháng Tám, chợ Đồng không còn nữa, bài thơ Chợ Đồng giúp ta hình dung vẻ sầm uất, đông vui, nhộn nhịp của phiên chợ này:

Sáng mồng bốn lại chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn phong phủ
Lá đa lác đác trước cổng chùa.

Sau lời hỏi han mở đầu chứa chan hi vọng "sáng mồng bốn lại chợ Đồng", tất cả các câu thơ đều bắt đầu bằng chữ "năm nay" như một tiếng thở dài ngao ngán trước hiện thực buồn bã, vắng vẻ:

Năm nay gà gáy canh ba
Chợ phiên vắng hẳn người qua thế mà!
Năm nay cán sáo đi xa
Không sang bà chị, không vào chú tôi.
Năm nay đào nở chênh chếch
Trông lên đỉnh núi thấy khe suối chảy...

Các câu thơ cứ ngắn dần độ dài. Từ câu thơ tám chữ cô đọng, đến câu thất ngôn, câu lục ngôn và kết thúc bằng hai câu thơ bốn chữ. Nhịp thơ đều đặn theo bước chân người đi chợ, vừa thong thả, vừa chầm chậm, vừa bước vừa nghĩ ngợi, nhìn ngắm. Cảnh vật thiên nhiên được miêu tả theo kiểu "từ gần đến xa", màu sắc chuyển đổi từ nhạt đến đậm, ít đến nhiều. Tất cả đều gợi buồn vì đều đang ở trạng thái "không hoàn thiện", "chưa trọn vẹn": lá đa lác đác, mưa phùn giăng mắc, hàng quán vắng teo, hoa đào chớm nở, suối chảy chênh chếch, đường đồi mờ mịt...

Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nổi bật lên hình ảnh những người đi chợ:

Bà già lần hạt nhẩm cầu kinh
Những cậu bé cõng em chờ mẹ
Đám học trò trê vai khăn xẻ
Ngồi quán cheo leo ngắm cánh buồm

Họ thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội, già trẻ gái trai, sang hèn... Họ đi chợ để mua bán, trao đổi hay chỉ để du xuân? Dù thế nào thì họ cũng đều mang theo tâm trạng phấn khởi, náo nức của những ngày đầu năm mới. Có nhiều người đi chợ nhưng ai cũng chìm đắm trong thế giới riêng của mình, không chú ý đến người khác. Họ hiện ra mỗi người mỗi dáng vẻ, tạo nên bức tranh về chân dung con người thật độc đáo. Người già lần tràng hạt, miệng nhẩm đọc kinh cầu nguyện. Đám học trò trên vai quàng khăn xẻ, ngồi cheo leo trên quán cao, say sưa ngắm cánh buồm thấp thoáng ngoài xa. Còn những cậu bé cõng em đợi mẹ đi chợ, thỉnh thoảng lại hỏi: "Mẹ ơi, bao giờ chúng ta về?".

Nguyễn Bính đã quan sát tinh tế, lựa chọn chi tiết và xây dựng chân dung rất điển hình về những con người của làng quê. Cảnh vật và con người hiện ra tự nhiên, có gì nói nấy, không vẽ vời, tô son trát phấn. Lời thơ mộc mạc, giản dị, giọng thơ nhẹ nhàng, đáng yêu.

Bằng những từ ngữ mộc mạc, đơn sơ, bài thơ Chợ Đồng đã tái hiện thành công phiên chợ Đồng đông vui, nhộn nhịp, mang đậm nét văn hóa truyền thống của làng quê Bắc Bộ. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về cuộc sống và tâm hồn của người nông dân Việt Nam thuở trước. Đọc bài thơ, ta càng thêm trân trọng những sản phẩm tinh thần của cha ông xưa, biết yêu quý, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar volunteer-photo-frame.svg
level icon
Nhân Irving

16/03/2025

phu123

Thi sĩ Xuân Diệu từng mệnh danh Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam. Yên Đổ, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, môt vùng đồng chiêm trũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Nguyễn Khuyến. Với tuổi đời 75, chỉ có 12 năm đi làm quan, còn lại trên nửa thế kỉ, ông gắn bó với làng xóm quê hương đi “Vườn Bùi, chốn cũ”, với núi An Lão, chợ Đồng,... thân yêu.

Nguyễn Khuyến đã mất non thế kỉ nhưng thơ ông, trái tim ông vẫn sống, vẫn gắn bó với cảnh dân tình dân. Cuộc sống thôn dã bình dị như thấm vào câu chữ bài thơ “Chợ Đồng” này. Ta đã biết nhiều tên chợ, phiên chợ trong ca dao, dân ca. “Chợ huyện một tháng sáu phiên - Gặp cô hàng xén kết duyên Châu - Trần; “Chợ Viềng năm có một phiên - Cái nón em đội cũng tiền anh trao”. Và chợ Đồng quê hương Tam Nguyên Yên Đổ.

Hai câu thơ đầu như một lời nhẩm tính chợt nhớ ra và còn hỏi, tự hỏi mình hay còn hỏi bà con đi chợ về?

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

Làng Vị Hạ, quê hương Nguyễn Khuyến có chợ. Và còn gọi là chợ Đồng, mỗi tháng có chín phiên họp vào ngày chấn: 4, 6,10, 14, 16, 20, 24, 26, 30. Ba phiên chợ cuối năm, chợ không họp trong làng nữa, chợ Tết nên họp ở cánh nương mạ, cạnh một ngôi đền cổ ba gian. Những năm được mùa, chợ Đồng, ba phiên chợ Tết đông vui lắm. Trái lại, những năm mất mùa, chợ Đồng thưa thớt người mua hán. Câu thơ thứ nhất nhắc đến một nét đẹp của quê hương. Tết đã đến, ngày hai mươi bốn tháng chạp, chợ Đồng vào phiên. Hai tiếng “năm nay” thời gian không xác định. Có phải đó là năm Quý Tị (1983), năm Ất Tị (1905) đê sông Hồng bị vỡ, vùng Hà Nam bị lụt lớn: “Tị trước Tị này chục lẻ ba - Thuận dòng nước cũ lại bao la...” (Vịnh lụt). Năm tiếng “chợ họp có đông không” như một tiếng thở dài đằng sau câu hỏi nhỏ. Cầu thơ chứa đầy tâm trạng; tâm trạng của một nhà nho gắn bó với bao nỗi vui buồn của nhân dân giữa thời loạn lạc, đói rét, lầm than.

Tiếp theo là hai câu thơ 3, 4 trong phần “thực” thêm một câu hỏi nữa, diễn tả nỗi lòng nhà thơ. Ta như cảm thấy một ông già lụ khụ, tay chống gậy trúc, ngơ ngác nhìn trời, tự hỏi:

Dở trời mưa bụi còn hơi rét,

Uống rượu tường đền được mấy ông.

Dở trời là thời tiết không thuận. Mưa bụi, mưa phùn liên miên, đường sá, “ngõ trúc quanh co” nơi làng quê lại bùn lầy, nhớp nháp, cả một miền quê năm hết Tết đến chỉ còn “hơi rét”. Cái rét trong lòng người rét rà, hơi rét của đất trời cùng với mưa bụi trắng trời như vây chặt lấy bà con nơi chốn quê lam lũ. Câu thơ “Dở trời mưa bụi còn hơi rét” mang hàm nghĩa về cảnh lầm than, nỗi cơ hàn của nhân dân, của bà con dân cày nghèo khổ, cực nhọc. Chợ Đồng đang họp trong mưa rét.

“Nếm rượu tường đền” là một nét đẹp, cổ truyền diễn ra trong ba phiên chợ Đồng cuối năm. Các bô lão làng Vị Hạ vẫn ngồi tựa lưng vào tường đền “nếm rượu”, xem thứ rượu nào ngon thì mua để tế lễ thánh trong dịp Tết và đầu xuân. Chỉ một nét đẹp trong phong tục quê hương vẫn được Nguyễn Khuyến nhắc đến với bao tình cảm mến yêu và trân trọng. “Được mấy ông?” vì còn có bao cụ già nữa, thưa thớt, vắng vẻ cả rồi. Câu thơ thứ tư ý tại ngôn ngoại, đã thể hiện nỗi buồn bơ vơ, cô đơn của một nhà nho bất đắc chí, như ông đã nói trong bài “Gửi bạn”:

Đời loạn đi về như hạc độc,

Tuổi già hình bóng tựa mây côi.

Hoặc

Xuân về ngày loạn còn lơ láo,

Người gặp khi cùng cũng ngẩn ngơ.

(Ngày xuân dặn các con)

Hai câu 3, 4 chỉ một vài nét đơn sơ, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh, không khí buồn tẻ của phiên chợ Đồng “năm nay” thưa thớt vắng vẻ, buồn trong mưa rét. Nó có giá trị hiện thực phản ánh cảnh dân, tình trên miền Bắc nước ta một trăm năm về trước.

Nguyễn Khuyến có tài ghi lại không khí cuộc sống dân dã vào trong những câu thơ của mình. Đây là cảnh chợ tan nhà thơ tả những âm thanh, những tiếng đời ông nghe được:

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.

Có người cho rằng bài thơ “gợi lên không khí rộn rịp cảnh chợ Đồng” trong hai câu 5, 6 này. Xuân Diệu đã hiểu ngược lại, thi sĩ nói: “người về” không phải là về họp mà là ra về; càng về cuối chợ, có cái huyên thuyên của sự rã đám, kẻ đòi nợ càng thúc người chịu nợ... Cái âm “xáo xác” đối với cái thanh “lung tung”. Xao xác nghĩa là ồn ào mà ngơ ngác. Lung tung là rắc rối, loạn xạ cả lên. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Cái nghèo túng đang đè nặng xóm làng quê.

Cảnh hàng quán mua bán “nghe xáo xác”. Cái buồn của sự đói nghèo càng được nhân lên khi năm hết Tết đến rồi. Hai câu trong phần thực nói về cái rét, hai câu trong phần luận tả cái nghèo. Có nỗi khổ nào lớn hơn cái nỗi khổ cơ hàn? Vạn khổ bất như bần? Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột”. Đó là ba cái khổ của người nghèo xưa nay. Nguyễn Khuyến đã nghe được bao nỗi đời cay cực của nhân dân trong xã hội cũ, nên ông mới viết thấm thía như vậy: “Nợ nần năm hết hỏi lung tung”. Ông đã chỉ ra nguyên cớ của cái nghèo, cái rét ấy:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua,

Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?

Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho!

(Chốn quê)

Trở lại bài “Chợ Đồng” hai câu kết chứa chất bao tâm trạng. Người đi chợ về đã vãn. Một mình nhà thơ đứng bơ vơ nhẩm tính. “Dăm ba ngày nữa tin xuân tới”, năm cũ dần qua, năm mới dần sang. Cái nghèo, cái rét vẫn là nỗi lo, nỗi buồn man mác. Chợt nhà thơ giật mình trước cái âm thanh “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”. Tác giả vận dụng tài tình điển tích về tiếng pháo trúc xua đuổi ma quỷ của Lý Điền ngày xưa bên Trung Quốc để tạo ra một ý mới. Tiếng pháo trúc “nhà ai” nổ “một tiếng đùng” như muốn xua đi cái nghèo đói của năm cũ để “Co cẳng đạp thằng bần ra cửa... Giơ tay bồng ông phúc vào nhà” (Nguyễn Công Trứ). Nguyễn Khuyến đã từng chợt tỉnh khi nghe “Cú đâu đớp động dưới chân bèo”, và giờ đây trong cảnh “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng” vãn, ông lại bồi hồi ngơ ngác lúc nghe “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”. “Nhà ai” - không rõ, mơ hồ, xa xăm. Nỗi cô đơn của nhà thơ không thể nào kể xiết được:

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

“Tin xuân tới” với bao nỗi mong chờ cho dân cày mát mặt “nhờ trời” để dân làng Vị Hạ “được bát cơm no”. Nguyễn Khuyến tả cảnh chợ Đồng với bao nỗi buồn lo, le lói một niềm ước mong cho dân nghèo khi “tin xuân tới”. Đó là tấm lòng thương dân, lo đời đáng quý.

Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ “Chợ Đồng” của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết động qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền” của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’... Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 1
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi