Hoài Thanh (1909 - 1982) là cây bút phê bình xuất sắc. Những bài bình của ông rất đặc sắc, tài hoa. Tên tuổi ông trở thành bất tử với tác phẩm Thi nhân Việt Nam (1942). Bài Một thời đại trong thi ca trích từ phần cuối, là lời kết của cuốn Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942.
Bài tiểu luận trình bày tập trung những ý chính về sự thắng bại của thơ cũ và thơ mới, về công cuộc cách tân của thơ ca, về cái hay cái đẹp của thơ mới, về bi kịch của cái tôi trong thơ mới, về sự vận động của thơ mới từ 1932 đến 1941.
Xác lập nguyên tắc nhìn nhận, đánh giá thơ mới
Tác giả nêu lên nguyên tắc nhìn nhận, đánh giá thơ mới: Không nên so sánh các nhà thơ mới với các nhà thơ cổ điển, mà nên so sánh họ với nhau, và soi họ vào tâm hồn độc giả. Cách đặt vấn đề của tác giả thật dứt khoát, sâu sắc. Tác giả đã chỉ ra chỗ yếu của các nhà phê bình đương thời là khi bình luận hay so sánh các nhà thơ mới với các nhà thơ xưa. Theo tác giả, làm như vậy là một sự thô bạo, thiếu khoa học, vì mỗi thời đại có một tâm hồn riêng, cần phải so sánh các nhà thơ mới với nhau và soi họ vào lòng người đương thời.
Tinh thần thơ mới
Để giải thích tinh thần thơ mới, tác giả đã đưa ra một loạt dẫn chứng tiêu biểu để minh họa cho nhận xét của mình.
Trước hết, tác giả nói đến cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới: Tinh thần thơ mới không nằm trong từng câu thơ riêng rẽ, càng không thể diễn đạt trong một vài lời. Nó là hệ thống, nó là cái tinh thần chung của cả thời đại bao trùm tất cả các xu hướng thơ từ 1932 đến 1941.
Sau đó, tác giả cắt nghĩa, giải thích tinh thần thơ mới bằng một loạt các khái niệm gần gũi, liên thông: Lãng mạn là gì? Lãng mạn là trên đường phiêu lưu của trí tuệ và tình cảm, con người ta có thể gặp nhiều bước quanh co khúc khuỷu, nhưng bao giờ cũng tiến dần một phương. Phương ấy là cái đích của lãng mạn, cái lí tưởng của mỗi thời đại.
Đối với thời đại chúng ta, cái đích ấy chính là cái tôi. Trước Tản Đà chưa có ai dám xưng "tôi" trong thơ, kể cả trong thư tín, người ta cũng ít xưng "tôi", mà thường xưng là "nguyện", "chút phận", "chút nữ nhi", "người khách xa"... Tản Đà xưng "tôi" trong thơ, trong thư từ, nói năng hằng ngày.
Theo tác giả, cái tôi trong thơ mới khác với cái tôi trong thơ cũ ở chỗ nó không giống như cái khí côn quyền, tiền tài, tức là không phải cái tôi to lớn, đè bẹp cái ta chung; mà nó là cái tôi bé nhỏ, mong muốn được hoà tan vào trong cái ta chung.
Cái tôi trong thơ mới mang tính chất bi kịch bởi nó là cái tôi đã được thức tỉnh, nhưng lại rơi vào trạng thái tuyệt vọng. Nó cứ luôn luôn tự phân đôi, tự đối diện, tự tranh cãi, rồi lại tự hòa hợp, để rồi lại tự phân đôi...
Bi kịch ấy được tác giả miêu tả sinh động, gợi cảm qua hàng loạt dẫn chứng lấy từ thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khuê,...
Sự vận động của thơ mới từ 1932 đến 1941
Từ 1932 đến 1941, thơ mới trải qua hai thời kỳ: Thời kỳ chấp nhận sự phủ định, phản kháng, thời kỳ vươn lên khẳng định.
Các nhà thơ mới đã vượt qua bi kịch để vươn lên khẳng định cái tôi, đồng thời hoà nhập với cái ta chung của cộng đồng dân tộc. Họ đã biết hướng cái tôi cá nhân chủ nghĩa vào cuộc đời, vào tiếng Việt thân yêu.
Cách nhìn nhận, đánh giá thơ mới của Hoài Thanh
Hoài Thanh đã nhìn nhận, đánh giá thơ mới trong mối quan hệ với lịch sử, với quá khứ, hiện tại và tương lai. Ông đã thấy được cái hay, cái đẹp, cái hạn chế, cái bi kịch của thơ mới. Nhờ vậy, cách nhìn nhận, đánh giá của ông vừa thấu đáo, vừa trân trọng, vừa có tinh thần xây dựng.
Về phương pháp nghệ thuật, Hoài Thanh đã sử dụng thành công biện pháp nghị luận kết hợp hài hoà với tự sự, miêu tả, biểu cảm, dẫn dắt khéo léo người đọc tiếp cận vấn đề. Lời văn của tác giả trong sáng, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, giọng văn chân thành, tha thiết, thấm đượm tình cảm, dễ làm rung động lòng người.
Đoạn trích Một thời đại trong thi ca đã giúp ta hiểu thêm về phong trào thơ mới, về cách nhìn nhận, đánh giá thơ mới một cách đúng đắn, khoa học.