Trong lịch sử nước ta, Nguyễn Trãi là một nhà quân sự tài ba, một vị anh hùng dân tộc với lòng yêu nước nồng nàn. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho dân, cho nước và đã để lại nhiều giá trị to lớn cho thế hệ mai sau.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442, quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau này, ông dời về ở Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình danh giá, cha là Nguyễn Phi Khanh, đỗ thái học sinh dưới triều Trần, gọi Tiến sĩ Lương Nhữ Học là bác; mẹ là Trần Thị Thái - con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Tuổi thơ Nguyễn Trãi chịu nhiều mất mát, đau thương: mới một tuổi, ông đã phải gánh nỗi đau mất mẹ; mười tuổi, chịu tang cha, ông sống với ông ngoại. Năm hai mươi tuổi, khi đang chuẩn bị tham dự khoa thi thì nhận tin ông ngoại mất. Cuộc đời của Nguyễn Trãi tuy nhiều bất hạnh nhưng rất vinh quang. Ông là bậc đại anh hùng dân tộc, là nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi vừa là nhà chính trị, quân sự, vừa là nhà ngoại giao, vừa là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước loạn lạc, chế độ phong kiến nhà Trần suy vi, lúc bấy giờ Hồ Quý Ly lên thay ngôi báu đã thực hiện nhiều cải cách lớn như bỏ quốc hiệu Trường Yên, đổi tên nước thành Đại Ngu, ban hành tiền "Quang Thiên", thực hiện chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại kỳ thi cử tuyển chọn nhân tài... Tuy nhiên, trước sự xâm lược của giặc Minh, nhà Hồ vẫn thất bại, đất nước rơi vào tay giặc. Chứng kiến cảnh đất nước bị giày xéo dưới gót giày quân xâm lược, Nguyễn Trãi đã vô cùng căm thù giặc Minh. Ông hăm hở tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo để cứu nước báo thù nhà. Gắn bó với nghĩa quân Lam Sơn ngay từ buổi đầu, Nguyễn Trãi đã đem hết tâm huyết, tài năng, trí tuệ phục vụ cho sự nghiệp cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi là một vị tướng tài ba, luôn sát cánh bên cạnh Lê Lợi. Ông đã bàn bạc với Lê Lợi kế hoạch kháng chiến, đề nghị thực hiện chiến lược "vây thành diệt viện" đánh đuổi quân Minh vào năm 1427. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn là một nhà chính trị lỗi lạc, ông đã soạn thảo bản Bình Ngô đại cáo - một áng "thiên cổ hùng văn" tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh; đồng thời tuyên bố nền độc lập, hòa bình của đất nước, đặt nền tảng cho những bước phát triển tiếp theo.
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi tiếp tục gắn bó với Lê Lợi, tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, do có những mâu thuẫn trong triều đình, Nguyễn Trãi bị nghi kị, không được trọng dụng. Năm 1442, ông bị vu oan tội giết vua và bị xử án tru di tam tộc. Nỗi oan ức của Nguyễn Trãi kéo dài suốt hơn hai mươi năm, đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm con cháu còn sót lại cho làm quan.
Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận kiệt xuất, cây đại thụ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc. Ông để lại khối lượng sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều phương diện, bao gồm văn học, lịch sử, địa lí, luật pháp... Ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những cống hiến vượt bậc, có giá trị mở đường, khai phá, đặt nền móng cho sự phát triển của những thể loại đó.
Về sự nghiệp văn học, Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm có giá trị thuộc nhiều thể loại, bao gồm chữ Hán và chữ Nôm:
- Chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, Văn loại.
- Chữ Nôm: Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn.
Các tác phẩm của Nguyễn Trãi đều thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Ông là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, nhà quân sự tài ba, nhà ngoại giao lỗi lạc, nhà văn hóa, nhà thư pháp tiêu biểu của dân tộc.
Với những đóng góp to lớn của mình, Nguyễn Trãi xứng đáng là một trong bảy danh nhân văn hóa thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận, gồm: Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Phạm Ninh, Đào Duy Từ, Lê Quý Đôn, Trương Vĩnh Ký.
Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc, là nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Ông là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông khen ngợi "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo".