câu 1. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Kiên, một anh bộ đội bước ra từ cuộc chiến với chấn thương tâm hồn nặng nề trước những hi sinh, mất mát, đổ vỡ do chiến tranh gây nên và trước khả năng mai một của trí nhớ cộng đồng về một thời kì lịch sử đặc biệt đã qua. Do những thúc bách nội tâm, anh trở thành người viết – nhà văn, sáng tác "dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời" và cuối cùng đã bỏ lại “cái khối lượng ngốt người” những trang bản thảo để đi đâu không rõ, “như gió trời”.
(1) Thì ra cuộc đời kỳ thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng. Đối với tôi tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi. Và không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hy vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay. Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại trong tôi không phải do những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của những hồi tưởng. […]
(2) Nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của tình yêu, như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát ngát. Nghĩa là buồn, là nhớ, là niềm đau êm dịu, có thể làm cho người ta bay bổng lên trong thời gian quá khứ, tuy nhiên với điều kiện không được dừng nỗi buồn chiến trận lại ở cụ thể một thời điểm nào, một sự việc nào, một con người nào, bởi vì khi dừng mắt lại thì không còn là nỗi buồn nữa mà là sự xé đau trong lòng, và nhất là đừng có chạm tới những cái chết. Cho đến mãn đời Kiên còn nhớ tới Quảng, người tiểu đội trưởng đầu tiên của mình. Bây giờ là mùa khô năm 66, chiến dịch Đông Sa Thầy, và Kiên còn là lính mới, lần đầu dự trận. Suốt ba ngày đêm ác liệt quần nhau với bọn Ngựa Bay, Kiên theo sát Quảng, được Quảng dẫn dắt, kèm cặp và thực chất là che chở cho. Đứng, nằm, lăn, bắn, vọt tiến, chạy, nhất nhất Kiên theo Quảng. Nhưng rồi Quảng bị đốn trên đường vận động chiến, khi toàn đại đội đang băng qua vùng rừng le dưới đồi 300 để áp sát bọn Mỹ đang từ trực thăng đổ xuống. Một trái cối 106 nổ tung gần như dưới chân, nhấc Quảng lên, quăng bổng theo đường vòng cung rồi giáng quật xuống. Kiên quỳ cạnh Quảng, luống cuống không biết băng thế nào.
- Đừng chạm vào tao... đừng băng nữa... ô ô... đừng... Kiên vẫn loay hoay tìm cách băng bó. - Thôi ôi! Thôi... giời ơi... bắn anh đi em... Quảng khóc khe khẽ và gầm lên hung tợn - Bắn! - Kiên, tao hạ lệnh cho mày hạ tao mau! Trời ơi! Trời ơi bắn đi mà em, bắn!
Trận đánh rung chuyển rừng cây. Kình! Kình! Kình! Cối nã dồn dập. Tiếng reo hò dội tới qua màn khói. Kiên run cầm cập nhưng vẫn cố băng bó cho Quảng. Vừa gắng gượng nhẹ tới quá mức có thể Kiên vừa âm thầm hy vọng là tiểu đội trưởng sẽ ngất đi mà nhãng khỏi cái đau rùng rợn đang giày xéo lên cả chính bản thân Kiên. Nhưng cái chết như nhất định bắt Quảng phải tỉnh để chịu đến cùng sự hành hạ của nó.
câu 2. Đề tài: Chiến tranh
câu 3. Câu văn "Thì ra cuộc đời kỳ thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng" sử dụng hai biện pháp tu từ chính là so sánh và nhân hóa.
* So sánh: Câu văn so sánh cuộc đời với hình ảnh "con thuyền bơi ngược dòng sông", nhấn mạnh sự bất lực, bị cuốn theo dòng chảy thời gian của con người. Dòng sông tượng trưng cho thời gian luôn chảy xuôi, con thuyền dù cố gắng chống chọi cũng không thể vượt qua được quy luật tự nhiên này.
* Nhân hóa: Hình ảnh "con thuyền bơi ngược dòng sông" được nhân hóa bằng động từ "bơi". Việc nhân hóa này khiến cho hình ảnh con thuyền trở nên sinh động, gần gũi hơn, đồng thời tăng thêm sự liên tưởng về sự vất vả, khó khăn của con người trong cuộc sống.
Tác dụng của hai biện pháp tu từ này là:
* Tăng sức gợi hình, gợi cảm cho câu văn, giúp người đọc dễ dàng hình dung được sự khắc nghiệt, tàn nhẫn của thời gian đối với cuộc đời con người.
* Nhấn mạnh sự bất lực, bị cuốn theo dòng chảy thời gian của con người. Cuộc đời giống như một con thuyền nhỏ bé, đơn độc giữa dòng sông rộng lớn, đầy rẫy những thử thách và sóng gió.
* Gợi suy ngẫm về ý nghĩa cuộc sống, về giá trị của thời gian và sự cần thiết phải trân trọng từng khoảnh khắc hiện tại.
câu 4. Nhân vật Kiên là một người lính bước ra từ cuộc chiến với những chấn thương tâm hồn nặng nề. Anh mang trong mình những vết thương không thể chữa lành, những ký ức kinh hoàng và ám ảnh dai dẳng. Chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, ước mơ và hạnh phúc của Kiên, biến anh thành một con người cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời.
Kiên là một người lính dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Anh đã trải qua nhiều trận đánh khốc liệt, chứng kiến bao nhiêu cảnh tượng tàn khốc của chiến tranh. Những hình ảnh đó đã in sâu vào tâm trí Kiên, khiến anh luôn sống trong nỗi sợ hãi và ám ảnh.
Chiến tranh cũng đã hủy hoại mối quan hệ gia đình của Kiên. Anh phải rời xa vợ con, sống trong cảnh cô đơn, thiếu thốn tình cảm. Điều này càng khiến Kiên thêm đau khổ và tuyệt vọng.
Tuy nhiên, Kiên không hề bi quan hay chán nản. Anh luôn giữ vững niềm tin vào cuộc sống và khát khao được hòa nhập với xã hội. Kiên đã vượt qua những khó khăn, thử thách để tiếp tục sống và cống hiến cho đất nước.
Qua đoạn trích, chúng ta thấy được "bộ mặt" của chiến tranh thật tàn bạo và đáng sợ. Nó không chỉ gây ra những tổn thất về vật chất mà còn hủy hoại tinh thần và tâm hồn của con người. Chiến tranh là một thứ tội ác cần phải lên án và ngăn chặn.
câu 5. Trong đoạn trích "Nỗi buồn chiến tranh", Bảo Ninh đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc về hậu quả của chiến tranh đối với con người. Chiến tranh không chỉ mang đến những tổn thất về mặt vật chất mà còn để lại những vết thương tinh thần khó lành. Nhân vật Kiên, một người lính trở về sau chiến tranh, đã phải đối mặt với những ám ảnh, những cơn ác mộng và sự cô đơn tột độ.
Giá trị của hòa bình được thể hiện rõ nét qua những khoảnh khắc yên bình, thanh thản mà Kiên trải nghiệm. Khi anh ngồi bên bờ suối, lắng nghe tiếng chim hót, ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên, anh cảm nhận được sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn. Hòa bình không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh mà còn là sự tự do, hạnh phúc và sự phát triển của mỗi cá nhân.
Hòa bình cũng là nền tảng để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và phát triển. Trong một xã hội hòa bình, mọi người có cơ hội được học tập, lao động và phát huy tối đa tiềm năng của bản thân. Họ có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và được bảo vệ bởi pháp luật. Điều này góp phần tạo nên một môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật.
Tuy nhiên, hòa bình không phải là một trạng thái tĩnh tại mà luôn cần được gìn giữ và vun đắp. Chúng ta cần ý thức được tầm quan trọng của hòa bình và nỗ lực chung tay xây dựng một thế giới hòa bình, nơi mà mọi người đều được sống trong hạnh phúc và an lành.