câu 1. Đề tài của đoạn trích trên là phê phán thói hư tật xấu của con người trong xã hội cũ. Đoạn trích miêu tả cảnh tượng một bữa tiệc ăn vạ của nhân vật chính, qua đó thể hiện sự bất công, tham lam và tàn nhẫn của những kẻ giàu có đối với những người nghèo khổ. Tác giả sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, châm biếm để vạch trần bộ mặt thật của bọn cường hào ác bá, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam.
câu 2. Trong câu văn "họ tấp nập kéo vào đình, tôi thì rẽ sang nhà khoá trúc, người bạn đồng học với tôi năm xưa", tác giả Ngô Tất Tố đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê không tăng tiến.
- Tác giả liệt kê hàng loạt những hành động của đám đông: "tấp nập kéo vào đình".
- Việc liệt kê này nhằm nhấn mạnh sự náo nhiệt, ồn ào của lễ hội, tạo nên bức tranh sinh động về khung cảnh lễ hội.
- Tuy nhiên, cách liệt kê không theo trình tự thời gian hay logic nào, mà chỉ đơn thuần là liệt kê những hành động diễn ra cùng lúc. Điều này góp phần làm cho câu văn trở nên tự nhiên, chân thật hơn, thể hiện rõ nét sự hỗn loạn, náo nhiệt của lễ hội.
Phản ánh:
Qua bài tập này, chúng ta có thể thấy rằng việc phân tích biện pháp tu từ đòi hỏi sự tinh tế và khả năng liên tưởng. Không chỉ dừng lại ở việc xác định loại biện pháp tu từ, chúng ta cần phải hiểu rõ tác dụng của nó trong từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, việc đưa ra ví dụ mở rộng giúp học sinh củng cố kiến thức và vận dụng linh hoạt các khái niệm đã học.
câu 3. Trong đoạn trích từ truyện ngắn "Một tiệc ăn vạ" của Ngô Tất Tố, yếu tố phi hư cấu được thể hiện rõ nét qua việc miêu tả chi tiết về cái chết của nhân vật Lão Sấu. Tác giả không chỉ đơn thuần kể lại sự kiện mà còn cung cấp những thông tin cụ thể như thời gian, địa điểm, nguyên nhân dẫn đến cái chết, tạo nên tính xác thực cho câu chuyện.
Tác dụng của yếu tố phi hư cấu này là làm tăng độ tin cậy cho câu chuyện, khiến độc giả cảm nhận được sự chân thật và sâu sắc hơn về nội dung. Đồng thời, nó cũng góp phần khắc họa rõ nét tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng của nhân vật chính khi chứng kiến cái chết của người bạn thân thiết. Yếu tố phi hư cấu giúp độc giả hiểu rõ hơn về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, đồng thời khơi gợi suy ngẫm về giá trị con người và ý nghĩa cuộc sống.
câu 4. Qua đoạn trích trên, tác giả muốn gửi đến người đọc thông điệp rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng, đôi khi chúng ta gặp phải những khó khăn, thử thách và thất bại. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta cần giữ vững niềm tin vào bản thân, không bỏ cuộc và tiếp tục cố gắng để vượt qua mọi trở ngại. Chúng ta nên nhớ rằng mỗi ngày mới đều mang lại cơ hội mới và hy vọng cho tương lai.
câu 5. Trong xã hội phong kiến Việt Nam trước đây, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vô cùng cực khổ, đặc biệt là người nông dân. Họ bị áp bức bóc lột nặng nề bởi tầng lớp thống trị. Vì vậy, họ luôn khao khát một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhiều tác phẩm viết về đề tài này như "Tắt đèn", "Chí Phèo"... Trong số đó phải kể đến truyện ngắn "Một đám cưới" của nhà văn Nam Cao. Tác phẩm đã cho thấy bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến mục nát lúc bấy giờ.
Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực phê phán. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân. Với đề tài người nông dân, nhà văn đã vẽ nên bức tranh chân thực về cuộc sống nghèo khổ, tăm tối của nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Truyện ngắn "Một đám cưới" là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông viết về đề tài này. Tác phẩm đã cho thấy sự đồng cảm, xót thương của Nam Cao dành cho những người nông dân khốn khổ.
Đám cưới là sự kiện trọng đại chỉ xảy ra một lần trong đời người. Ấy vậy mà Dần lại phải trải qua hai đám cưới. Lần đầu tiên là cuộc hôn nhân gượng ép giữa cô với người đàn ông mà cô không hề yêu thương. Đám cưới ấy diễn ra trong không gian u ám, ảm đạm, phản ánh đúng hoàn cảnh nghèo khổ của gia đình Dần. Sau hai năm chung sống, vì chán ghét tính lười biếng, thói dâm đãng của chồng, Dần bỏ về nhà mẹ đẻ. Rồi nàng lại phải lòng một người đàn ông khác tên Du. Để được ở bên người mình yêu, Dần quyết định lấy cớ mang con đi xem hội chùa nhưng thực chất là chạy trốn cùng Du. Không lâu sau đó, Dần kết hôn với Du và sinh thêm một đứa con chung. Để hợp thức hóa mối hôn nhân này, họ đã tổ chức một đám cưới thật linh đình. Nếu lần đầu tiên Dần cưới chồng trong sự ép buộc, đau khổ thì lần này cô ấy đã tìm được tình yêu đích thực của đời mình. Điều này được thể hiện rất rõ qua tâm trạng phấn khởi, vui tươi của Dần.
Trước hết, ta thấy được thái độ hồ hởi, tích cực của Dần khi chuẩn bị về nhà chồng. Cô ấy nhanh nhẹn thu dọn đồ đạc, ổn định chỗ ngồi cho các con, trò chuyện với chúng bằng giọng điệu vui vẻ. Không những thế, Dần còn chủ động nhờ người dắt lợn về nhà, mặc cả tiền bán chó và mua thịt cho khách quan. Cô ấy thậm chí còn chẳng màng đến số tiền mà bà cụ vừa cho, chỉ quan tâm làm sao để lo liệu đủ cho đám cưới. Có thể thấy rằng, Dần đang rất háo hức chờ tới ngày vui của mình.
Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự thay đổi trong cách nhìn nhận của Dần đối với cuộc hôn nhân này. Trước đây, cô ấy luôn cảm thấy xấu hổ, e dè mỗi khi có ai nhắc đến chữ "cưới". Nhưng bây giờ, Dần đã thoải mái hơn khi nghe thằng cu Kít nói về từ "lấy vợ". Thậm chí, cô ấy còn trêu đùa nó để khẳng định rằng mình sẽ là người lấy vợ chứ không phải nó.
Ngoài ra, ta còn thấy được niềm hạnh phúc rạng ngời trên khuôn mặt của Dần. Cô ấy cười tươi tắn, đôi mắt long lanh tràn đầy sức sống. Dường như, đám cưới với Du đã mang đến cho Dần một tia hy vọng mới về tương lai tốt đẹp hơn.
Như vậy, ta thấy được sự thay đổi rõ rệt trong tâm trạng của Dần ở lần cưới thứ hai so với lần đầu tiên. Điều này cho thấy niềm khát khao hạnh phúc mãnh liệt của con người trong hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, cũng phản ánh thực trạng xã hội phong kiến thối nát, đẩy người nông dân vào bước đường cùng.