Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem là một nhân vật kiệt xuất, một danh nhân văn hóa thế giới. Người đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta đánh đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành quyền làm chủ đất nước. Không chỉ vậy, Người còn để lại cho chúng ta di sản to lớn về các tác phẩm văn học với những giá trị hiện thực và tính chiến đấu cao. Trong đó, Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực, có sức lay động sâu sắc tới tâm hồn người đọc, người nghe.
Tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập được trích từ Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Bản tuyên ngôn này được đánh giá là một áng văn chính luận mẫu mực bởi nó đáp ứng đầy đủ các yếu tố như bố cục chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn...
Trước hết, bản Tuyên ngôn Độc lập có bố cục chặt chẽ, mạch lạc. Tác phẩm gồm ba phần, phần đầu nêu lên cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn bằng việc khẳng định quyền bình đẳng và tự do của mỗi con người; phần hai vạch trần tội ác của thực dân Pháp trong hơn tám mươi năm đô hộ; phần cuối nêu lên ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Với bố cục rõ ràng, rành mạch, Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện được sự khéo léo, tài tình trong lối viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, bản Tuyên ngôn Độc lập có lí lẽ đanh thép, sắc bén. Để khẳng định quyền bình đẳng và tự do của mỗi con người, Bác đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới là Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1791). Việc trích dẫn này không chỉ thể hiện sự tôn trọng của Bác đối với các giá trị chung của nhân loại mà còn tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Tiếp theo, để vạch trần tội ác của thực dân Pháp, Bác đã sử dụng hàng loạt những dẫn chứng cụ thể, sinh động, giàu sức thuyết phục. Từ việc chúng thi hành chế độ sưu thuế vô nhân đạo, bóc lột sức lao động của nhân dân đến việc chúng đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa, Bác đã phơi bày bộ mặt tàn bạo, phi nghĩa của thực dân Pháp. Những dẫn chứng ấy đã góp phần tăng thêm sức thuyết phục cho bản Tuyên ngôn, đồng thời khơi dậy lòng căm thù giặc sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe. Cuối cùng, để kết thúc bản Tuyên ngôn, Bác đã đưa ra lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Lời tuyên bố này đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Cuối cùng, bản Tuyên ngôn Độc lập có ngôn ngữ hùng hồn, giàu sức biểu cảm. Ngôn ngữ trong bản Tuyên ngôn rất đa dạng, phong phú, phù hợp với từng nội dung cụ thể. Khi thì trang nghiêm, hào sảng khi thì đanh thép, hùng hồn, lúc lại tha thiết, chân thành. Ví dụ, khi khẳng định quyền bình đẳng và tự do của mỗi con người, Bác sử dụng ngôn ngữ trang nghiêm, hào sảng: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Khi vạch trần tội ác của thực dân Pháp, Bác sử dụng ngôn ngữ đanh thép, hùng hồn: "Chúng thi hành... Chúng lập ra..." Khi kêu gọi toàn thể dân tộc đoàn kết, Bác sử dụng ngôn ngữ tha thiết, chân thành: "Hỡi đồng bào cả nước!". Sự đa dạng, phong phú của ngôn ngữ đã góp phần làm cho bản Tuyên ngôn trở nên hấp dẫn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người.
Như vậy, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một áng văn chính luận mẫu mực bởi nó có bố cục chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn. Bản Tuyên ngôn đã khẳng định quyền bình đẳng, tự do của dân tộc Việt Nam, đồng thời vạch trần tội ác của thực dân Pháp và kêu gọi toàn thể dân tộc đoàn kết, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc.