24/06/2025
26/06/2025
Nguyễn Khuyến là một trong những tác giả xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, nổi tiếng với chùm thơ thu bằng chữ Nôm. "Thu ẩm" là một trong những bài thơ về mùa thu nổi tiếng nhất của ông, thể hiện dòng cảm xúc sâu lắng của một con người yêu đời, yêu quê hương, đất nước. Qua những hình ảnh của bài thơ, người đọc như được cảm nhận dáng thu, hồn thu lung linh của đồng quê Bắc Bộ.
Ngay từ hai câu đầu, “Ba gian nhà cỏ thấp le te/ Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè”, Nguyễn Khuyến không chọn không gian sáng sủa mà lại hướng đến một đêm mùa thu tĩnh lặng, u tịch. Cảnh thu hiện lên không còn là hình ảnh tráng lệ, rực rỡ mà khoác lên mình vẻ khiêm nhường, giản dị của một mái nhà cỏ nghèo khó. Gian nhà cỏ trở thành biểu tượng cho cái nghèo, cái cực nhưng qua nét bút của Nguyễn Khuyến, cái nghèo ấy lại trở nên ấm áp, gần gũi. Từ láy “le te” càng làm tăng thêm nét thấp bé, khiêm nhường của ngôi nhà cũng như cảnh vật, ánh sáng lập lòe của đom đóm càng làm nổi bật sự quạnh quẽ, tối tăm, khiến cho không gian như chìm sâu vào tĩnh lặng.
Tới hai câu thực: “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt/ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”, tác giả lựa chọn những hình ảnh rất mộc mạc, giản dị của làng quê. Sương thu mỏng nhẹ như làn khói nhạt phủ quanh lưng giậu, ánh trăng in trên mặt ao lăn tăn, bóng trăng loe ra thành nhiều hình thù kỳ ảo. Đặc biệt, điệp phụ âm "l" trong cụm từ “làn, lóng lánh, loe” không chỉ gợi cảm giác mềm mại mà còn cho thấy tài sử dụng ngôn ngữ giàu nhạc điệu của thi nhân, bức tranh mùa thu càng trở nên lung linh, huyền ảo.
Đến hai câu luận, “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt/ Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe”, tác giả chuyển sang miêu tả bầu trời thu xanh ngắt đến tuyệt đối, như một lớp màu được “ai” đó khéo léo nhuộm lên. Đại từ phiếm chỉ “ai” cùng nghệ thuật nhân hóa khiến cảnh vật mang vẻ đẹp mờ ảo, huyền bí. Bên cạnh đó, hình ảnh “mắt lão không vậy cũng đỏ hoe” vừa là nét tự họa vừa là sự gửi gắm tâm trạng, bởi ánh mắt ấy ẩn chứa biết bao nỗi niềm, u hoài trước cảnh vật, trước thời cuộc và cũng là nỗi buồn đời thường của một người từng trải.
Cuối cùng, hai câu kết “Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy/ Chỉ dăm ba chén đã say nhè” đã hé lộ tâm hồn Nguyễn Khuyến. Không phải say vì rượu mà là say vì muốn quên đi nỗi buồn thời thế, sự bất lực trước cảnh đời. Chỉ một vài chén rượu cũng đủ khiến tâm hồn nhà thơ lảo đảo, say nhè, như muốn thoát khỏi thực tại đầy ưu tư. Nghệ thuật sử dụng thể thất ngôn bát cú Đường luật cùng ngôn từ sáng tạo, tự nhiên, giản dị đã làm nên nét riêng biệt cho “Thu ẩm”.
Từ đầu đến cuối bài thơ, tâm trạng u hoài, man mác của Nguyễn Khuyến thấm sâu vào từng hình ảnh, từng âm thanh của cảnh vật. Bài thơ không chỉ tái hiện tình thu mà còn thể hiện rõ cái nhìn nhân sinh buồn bã và chất nhân văn sâu sắc của một tâm hồn yêu quê, yêu đất nước nhưng day dứt trước thế cuộc đổi thay.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời