Văn chương luôn lấy cái hay, cái đẹp làm chuẩn mực để đánh giá. Vì vậy, mỗi tác phẩm đều được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ trau chuốt, giàu sức gợi hình, gợi cảm. Đặc biệt, đối với những áng thơ trữ tình, ngôn ngữ càng đóng vai trò quan trọng hơn cả. Bởi nó vừa là phương tiện để truyền tải nội dung, vừa là yếu tố quyết định giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Điều này được thể hiện rõ nét qua hai bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới: Tràng giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Ngay từ khổ thơ đầu tiên, người đọc đã bắt gặp một loạt những từ láy gợi buồn như “điệp điệp”, “song song”, “đìu hiu”. Chúng được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh nỗi buồn đang dâng lên từng đợt, từng đợt trong lòng thi nhân. Nỗi buồn ấy bao trùm khắp không gian, từ mặt nước mênh mông đến những con thuyền nhỏ bé, rồi lan rộng ra đến tận chân trời.
Tiếp đến, tác giả lại sử dụng biện pháp nhân hóa để miêu tả thiên nhiên. Dòng sông vốn dĩ vô tri bỗng trở nên buồn bã, giống như con người đang mang nặng tâm sự. Còn những cồn cỏ thì nhỏ bé, thưa thớt, tạo nên cảm giác hoang vắng, cô quạnh. Trong khi đó, con người lại vô cùng nhỏ bé, lẻ loi trước vũ trụ rộng lớn. Họ chỉ xuất hiện thoáng chốc rồi nhanh chóng bị nhấn chìm bởi dòng chảy của cuộc đời. Tất cả những yếu tố ấy đã góp phần tạo nên bức tranh thiên nhiên ảm đạm, phản ánh tâm trạng buồn bã, cô đơn của chủ thể trữ tình.
Ở khổ thơ thứ hai, tác giả tiếp tục sử dụng ngôn ngữ trữ tình để khắc họa khung cảnh thiên nhiên và bộc lộ cảm xúc của mình.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hình ảnh “cồn nhỏ gió đìu hiu” gợi lên sự tĩnh lặng, vắng vẻ của không gian. Cùng với đó là câu hỏi tu từ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Tuy có sự xuất hiện của con người nhưng âm thanh của phiên chợ chiều đã vãn lại vô cùng nhỏ bé, xa xôi. Nó không đủ để xua tan đi sự cô độc đang bủa vây trong tâm hồn thi sĩ. Thay vào đó, nó càng làm nổi bật hình ảnh những phận người nhỏ bé, lẻ loi giữa dòng đời tấp nập.
Trong hai khổ thơ trên, tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,... để miêu tả cảnh vật. Đồng thời, chúng còn giúp bộc lộ tâm trạng buồn bã, cô đơn của chủ thể trữ tình. Qua đó, ta thấy được tài năng sử dụng ngôn ngữ của Huy Cận. Ông đã biến những vật vô tri vô giác trở nên có hồn, có tâm trạng. Từ đó, gửi gắm nỗi niềm của mình tới độc giả một cách tinh tế, sâu sắc.
Như vậy, ngôn ngữ trữ tình đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên giá trị nghệ thuật và cảm xúc cho tác phẩm. Nó không chỉ là phương tiện để truyền tải nội dung mà còn là yếu tố quyết định đến sự thành bại của một tác phẩm văn học.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”