11/07/2025
11/07/2025
11/07/2025
“Qua Đèo Ngang” là một trong những bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan – một nữ sĩ tài danh trong nền văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ miêu tả phong cảnh thiên nhiên vùng đèo núi bằng những hình ảnh đẹp mà còn là tiếng lòng thấm đẫm nỗi cô đơn, hoài cổ và lòng yêu nước kín đáo của người thi nhân. Qua tám câu thơ ngắn gọn theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện tâm trạng đầy xúc cảm của mình một cách tinh tế và sâu sắc.
Ngay hai câu đề mở đầu, tác giả đã khéo léo đưa người đọc vào khung cảnh thiên nhiên hoang sơ của vùng đèo núi:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Câu thơ vừa tả cảnh, vừa gợi cảm. Hình ảnh “bóng xế tà” không chỉ đơn thuần là thời điểm trong ngày mà còn gợi lên sự tĩnh mịch, hiu quạnh, khiến cho tâm trạng của người lữ khách thêm phần buồn bã. Cảnh vật nơi đây hiện lên sống động với các hình ảnh đối lập như “cỏ cây – đá”, “lá – hoa”. Cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và điệp cấu trúc “chen... chen...” tạo nên cảm giác chật chội, như thể thiên nhiên đang xô lấn, chen chúc, phản ánh tâm trạng bức bối, rối bời của nhà thơ giữa không gian lạ lẫm, vắng vẻ.
Tiếp theo, hai câu thực lại mở rộng bức tranh thiên nhiên và đưa thêm hình ảnh con người vào trong cảnh vật:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Vẫn là cảnh đèo núi hoang vắng, nhưng nay đã có bóng dáng con người. Tuy nhiên, sự xuất hiện ấy lại càng làm tăng thêm cảm giác cô đơn. Các từ láy “lom khom”, “lác đác” miêu tả hình ảnh nhỏ bé, thưa thớt, gợi nên một cuộc sống đơn sơ, buồn tẻ, thiếu sức sống. Người dân hiện lên như điểm chấm nhỏ trong một không gian thiên nhiên rộng lớn, càng làm nổi bật sự lạc lõng, cô độc của nhân vật trữ tình.
Đến hai câu luận – đoạn cao trào cảm xúc trong bài thơ – tác giả chuyển từ tả cảnh sang bộc lộ trực tiếp tâm trạng:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Nỗi buồn được gửi gắm qua tiếng kêu của chim quốc và chim đa đa – hai loài chim thường gắn với sự thổn thức trong thơ ca cổ. Cách sử dụng âm thanh “quốc quốc”, “gia gia” không chỉ tạo nhạc điệu mà còn mang ý nghĩa biểu tượng: “quốc” – gợi nhắc đến “nước”, “gia” – gợi nhắc đến “nhà”. Qua đó, nhà thơ thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà một cách kín đáo nhưng sâu sắc. Đây là nét đặc trưng trong phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan – không nói trực tiếp, không than vãn bi lụy, mà để nỗi buồn thấm dần qua từng vần thơ.
Hai câu kết đọng lại tất cả tâm sự của người lữ khách:
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
Hình ảnh “trời non nước” mang vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, nhưng giữa cảnh rộng lớn ấy lại là một con người đơn độc, “ta với ta” – tự đối diện với chính mình. Cấu trúc “ta với ta” thể hiện sự cô độc đến tột cùng. Không ai bên cạnh để sẻ chia, không bạn đồng hành, không người thân, người tri kỷ. Chỉ còn lại một mảnh tình riêng, một nỗi buồn mênh mông, sâu lắng.
Về nghệ thuật, bài thơ thành công ở nhiều phương diện. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật một cách thuần thục, sử dụng các biện pháp tu từ như đảo ngữ, từ láy, ẩn dụ âm thanh rất tinh tế. Giọng thơ trang trọng, cổ kính nhưng vẫn gần gũi, nhẹ nhàng. Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả cảnh vật và biểu hiện tâm trạng, mang đậm chất trữ tình cổ điển.
Tóm lại, “Qua Đèo Ngang” không chỉ là bài thơ tả cảnh, mà còn là một tác phẩm trữ tình xuất sắc thể hiện nỗi cô đơn, tâm sự thầm kín của một con người mang tâm hồn yêu nước, yêu thiên nhiên và chất chứa nhiều suy tư thời cuộc. Qua ngôn ngữ thơ đầy tinh tế, Bà Huyện Thanh Quan đã để lại trong lòng người đọc một áng thơ sâu lắng, nhẹ nhàng mà ám ảnh, vừa thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa phản ánh vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời