Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho hậu thế rất nhiều tác phẩm có giá trị. Trong đó, "Thu Điếu" là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh mùa thu độc đáo, sáng tạo, đậm chất vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua đó, thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của tác giả.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa nên khung cảnh mùa thu qua hai câu thơ:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
Hình ảnh "ao thu" - một hình ảnh rất đỗi quen thuộc ở làng quê Việt Nam đã được tác giả lựa chọn để làm phông nền cho bức tranh thu của mình. Ao nước trong veo, hiền hòa, phẳng lặng như tờ giấy. Không gian nơi đây thật yên tĩnh, khiến tác giả cảm thấy "lạnh lẽo". Giữa khung cảnh mùa thu bao la, rộng lớn, tác giả thấy sự xuất hiện của một chiếc thuyền câu càng trở nên bé nhỏ, lọt thỏm vào khoảng không gian bao la, tạo nên một nét chấm phá thú vị cho bài thơ. Hai câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục vẽ nên bức tranh thu bằng những đường nét giản dị mà sinh động:
"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"
Tác giả đã vận dụng rất hiệu quả biện pháp tu từ lấy động tả tĩnh. Sự chuyển động của "sóng biếc" "hơi gợn tí" hay "lá vàng" "khẽ đưa vèo" có thể khiến người đọc cảm nhận được sự tĩnh lặng, êm đềm của mùa thu chốn thôn dã. Bức tranh mùa thu bỗng trở nên sống động hơn với sự xuất hiện của màu sắc. Đó là màu "biếc" của sóng nước hay là màu "vàng" của chiếc lá thu rơi? Tác giả không có câu trả lời, nhưng nhờ đó, người đọc lại càng thêm ấn tượng với bức tranh có nét chấm phá đầy sáng tạo.
Không chỉ vậy, bức tranh thu còn được mở rộng ở cả chiều cao qua hai câu thơ:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Bầu trời thu xanh ngắt, thăm thẳm, bao la. Mây "lơ lửng" giăng mắc trên bầu trời tạo cảm giác yên bình. Nét chấm phá "ngõ trúc" mang đến ấn tượng về một miền quê thanh bình, yên ả. Tuy nhiên, con đường làng lại chẳng có lấy một bóng người qua lại. Người đọc dễ dàng cảm nhận được nỗi cô đơn, trống vắng đang bao trùm lấy không gian trong bài thơ.
Đến hai câu thơ cuối, người đọc mới thấy bóng dáng của con người xuất hiện:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
Ở đây, tác giả đã khắc họa tư thế ngồi câu cá của mình. Dường như, nhà thơ đang chìm đắm trong suy nghĩ, miên man theo dòng cảm xúc mà không chú tâm đến việc câu cá. Tiếng "cá đớp động dưới chân bèo" như đã phá vỡ bầu không khí im lặng, khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến tiếng động nhè nhẹ của những chú cá thi nhau cắn câu.
Bài thơ "Thu Điếu" đã sử dụng rất thành công phép đối, đảo ngữ cùng hệ thống từ ngữ giàu sức gợi. Qua đó, tác giả đã khắc họa nên bức tranh mùa thu tuyệt đẹp, mang nét đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước tha thiết của nhà thơ.