So sánh hình ảnh người phụ nữ trong “Vợ nhặt” (Kim Lân) và “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), từ đó làm rõ sự đồng cảm của các nhà văn với thân phận và khát vọng sống hạnh phúc của con người.

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Wanners Warterson
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

27/09/2025

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Trong tác phẩm "Vợ Nhặt" của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ được miêu tả là một người mẹ nghèo khổ, nhưng vẫn luôn giữ được tình yêu thương và lòng nhân ái đối với con cái. Bà cụ Tứ đã trải qua nhiều khó khăn trong cuộc đời, nhưng vẫn không bao giờ từ bỏ hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn cho gia đình mình. Trong khi đó, trong tác phẩm "Vợ Chồng A Phủ" của Tô Hoài, nhân vật Mị lại được miêu tả là một cô gái trẻ tuổi, bị bắt cóc và trở thành nô lệ cho gia đình thống lí Pá Tra. Tuy nhiên, dù phải chịu đựng những đau khổ và bất công, Mị vẫn có sức mạnh nội tâm để vượt qua mọi khó khăn và tìm kiếm tự do. Cả hai nhân vật đều thể hiện sự kiên cường và ý chí sống mãnh liệt trước những thử thách của cuộc đời. Họ đều là những biểu tượng của tinh thần đấu tranh và hy vọng trong xã hội Việt Nam thời kỳ đó.

Phản ánh về quá trình giải quyết vấn đề:

Qua việc phân tích bài tập gốc và đưa ra ví dụ minh họa, chúng ta có thể thấy rằng phương pháp tiếp cận thay thế giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về chủ đề so sánh và phân tích nhân vật. Thay vì chỉ dựa vào kiến thức chung về so sánh, học sinh cần phải vận dụng kỹ năng đọc hiểu, phân tích chi tiết và tổng hợp thông tin để đưa ra kết luận chính xác. Điều này giúp họ phát triển khả năng tư duy logic, sáng tạo và khả năng diễn đạt hiệu quả. Ngoài ra, việc sử dụng ví dụ minh họa cũng giúp học sinh dễ dàng nắm bắt khái niệm và áp dụng nó vào thực tế.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
newbie

27/09/2025

Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn. Qua số phận và những khát vọng của họ, người đọc cảm nhận sâu sắc hiện thực xã hội cùng tấm lòng nhân đạo mà các tác giả gửi gắm. Nếu như Kim Lân với truyện ngắn Vợ nhặt đã dựng nên bức chân dung người phụ nữ nông dân nghèo đói nhưng vẫn ẩn chứa khát vọng sống mãnh liệt, thì Tô Hoài trong Vợ chồng A Phủ lại khắc họa cuộc đời người phụ nữ miền núi chịu ách áp bức nặng nề nhưng vẫn tìm thấy con đường đến tự do. Khi đặt hai tác phẩm cạnh nhau, ta thấy nổi bật sự đồng cảm của các nhà văn đối với thân phận con người, đồng thời khẳng định niềm tin vào sức sống, khát vọng hạnh phúc chính đáng của họ Ở Vợ nhặt, Kim Lân tái hiện bối cảnh nạn đói năm 1945 – một thảm họa khủng khiếp đã khiến hàng triệu người chết đói. Người vợ nhặt xuất hiện trong khung cảnh ấy, với ngoại hình “cong cớn”, “chao chát”, ban đầu chỉ vì miếng ăn mà theo không Tràng về làm vợ. Thân phận người phụ nữ trong truyện gắn liền với sự rẻ rúng, tủi nhục: một mạng người có thể được đổi bằng vài bát bánh đúc. Qua nhân vật này, Kim Lân tố cáo hiện thực xã hội cũ đã đẩy con người xuống đáy cùng cực của đói khát và sự tha hóa. Ngược lại, trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài tái hiện cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi dưới ách thống trị của giai cấp thống trị phong kiến miền núi, tiêu biểu là nhà thống lí Pá Tra. Nhân vật Mị – cô gái trẻ xinh đẹp, có tài thổi sáo, đáng lẽ được sống hạnh phúc, lại bị bắt làm dâu gạt nợ. Cuộc đời Mị bị biến thành kiếp trâu ngựa, sống lầm lũi, câm lặng như một cái bóng. Ở đây, thân phận người phụ nữ bị chà đạp không chỉ bởi nghèo đói mà còn bởi cường quyền và thần quyền. Dù đặt trong hai bối cảnh khác nhau, cả người vợ nhặt và Mị đều phản ánh một sự thật: người phụ nữ nghèo khổ trong xã hội cũ không có quyền tự quyết định cuộc đời mình, họ là nạn nhân của đói nghèo và Điểm chung ở hai nhân vật là dù hoàn cảnh tăm tối, họ vẫn tiềm ẩn khát vọng sống và phẩm chất đáng trân trọng. Người vợ nhặt trong Vợ nhặt sau khi theo Tràng về nhà, từ dáng vẻ chao chát ban đầu đã trở nên e thẹn, hiền hậu. Chỉ một bát cháo cám đắng chát mà chị vẫn ăn “điềm nhiên”, để giữ hạnh phúc mong manh vừa có. Ở nhân vật này, Kim Lân làm nổi bật sự biến chuyển của tâm hồn: từ một kẻ bơ vơ, nhặt được hạnh phúc trên bờ vực đói chết, chị đã biết lo toan, vun vén, khao khát một mái ấm. Đó chính là vẻ đẹp của niềm tin vào sự sống, vào tình người ngay trong hoàn cảnh thảm khốc nhất. Trong Vợ chồng A Phủ, nhân vật Mị cũng tiềm ẩn sức sống mãnh liệt. Dù bị đè nén bao năm, trong lòng Mị chưa bao giờ tắt lửa sống. Đêm tình mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức khát vọng tự do, tình yêu ở Mị. Khi thấy A Phủ bị trói chờ chết, lòng thương người cùng sự phản kháng âm thầm đã khiến Mị cắt dây cứu A Phủ. Hành động ấy không chỉ cứu người mà còn giải phóng chính mình, mở ra con đường mới đến tự do. Như vậy, cả Kim Lân và Tô Hoài đều khẳng định: đằng sau lớp vỏ khốn cùng, người phụ nữ luôn ẩn chứa khát vọng sống, khát vọng yêu thương và hạnh Kim Lân có sở trường miêu tả tâm lí tinh tế qua những thay đổi nhỏ trong dáng vẻ, hành động. Người vợ nhặt hiện lên với những chi tiết rất đời thường, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, qua đó toát lên vẻ đẹp nhân bản. Tô Hoài lại thành công trong việc xây dựng không gian miền núi giàu chất hiện thực và lãng mạn, kết hợp miêu tả nội tâm sâu sắc. Nhân vật Mị được khắc họa với nhiều lớp tâm trạng: từ tê liệt đến bùng cháy sức sống, từ cam chịu đến phản kháng mạnh mẽ. Cả hai đều chứng tỏ tài năng của nhà văn trong việc phản ánh hiện thực và bộc lộ tình thương đối với con người. Qua hình ảnh người phụ nữ, ta thấy rõ sự đồng cảm của các nhà văn với thân phận con người. Kim Lân gửi gắm niềm tin rằng ngay cả trong bóng tối đói nghèo, tình người vẫn có thể thắp lên ánh sáng. Tô Hoài khẳng định sức sống tiềm tàng sẽ giúp con người vươn tới tự do, hạnh phúc. Hai tác phẩm gặp nhau ở giá trị nhân đạo: trân trọng con người, tin tưởng vào sức mạnh bên trong họ, đồng thời tố cáo xã hội bất công đã vùi dập Việc so sánh hai hình ảnh người phụ nữ giúp ta thấy được diện mạo phong phú của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Dù ở nông thôn đồng bằng hay miền núi xa xôi, người phụ nữ đều mang khát vọng chung: được sống hạnh phúc, được làm chủ số phận. Văn học không chỉ phản ánh hiện thực đau thương mà còn khơi gợi niềm tin vào tương lai, vào sức sống bất diệt của con người Việt Nam. Kết luận Người vợ nhặt của Kim Lân và Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đều là những hình tượng giàu sức ám ảnh. Họ tiêu biểu cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ: khổ đau, bất hạnh nhưng luôn ẩn chứa khát vọng sống và tình yêu. Qua hai nhân vật ấy, người đọc cảm nhận rõ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của các nhà văn: đồng cảm, xót thương và trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người. Đồng thời, tác phẩm còn gửi gắm niềm tin rằng dù ở hoàn cảnh nào, con người cũng sẽ tìm được con đường đến tự do và hạnh phúc.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Wanners Warterson

Thời đại nào số phận người phụ nữ cũng là điều khiến người cầm bút trăn trở nhiều nhất. Những trang văn viết về họ bao giờ cũng là những trang viết ám ảnh, để lại trong lòng người đọc nhiều trăn trở hơn cả đã. Qua rất lâu thời của những cô Mị, thời của những người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Nhưng câu chuyện về mỗi thân phận mỗi cảnh đời của người xưa vẫn làm ta khôn nguôi.

Mị, người vợ nhặt hai con người ấy là hai số phận có thể nói là cùng khổ trong xã hội cũ. Mỗi người một cảnh ngộ riêng nhưng số phận của họ đều chung một màu đen.

Là một cô gái lao động miền núi ở Mị hội tụ tất cả những nét đẹp của một thiếu nữ xinh đẹp, tài giỏi, đảm đang, hiếu thảo.Chỉ bằng vài chi tiết nhỏ Tô Hoài đã khiến chúng ta phải say mê vẻ đẹp của bông hoa núi rừng, huống gì những thanh niên trai bản đã bị bị hút hồn ngày đêm thổi sáo cho Mị. nhưng điều cay đắng nhất là đóa hoa bản Mèo lại không được ném pao chọn người yêu, không được tìm người yêu trong phiên chợ tình. Mị sớm chịu cảnh làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ. Nay đứa con gái phải gánh trả bằng cả hạnh phúc, tuổi trẻ của mình. Mị về làm dâu nhưng thực chất là làm người ở cho nhà Thống Lý, lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi gánh nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Câu văn của Tô Hoài vừa giúp chúng ta hình dung sự vất vả, vừa cho thấy được những tâm trạng của nhân vật. Công việc cực nhọc không làm Mị nguôi đi những cay đắng. Trong cuộc đời Mị nín nặng, mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Bao nhiêu ngày ở nhà thống lý là bấy nhiêu ngày Mị cam chịu sống trong địa ngục trần gian. Điều đáng thương nhất là sự áp bức của chế độ phong kiến và thần quyền miền núi đã làm Mị tê liệt đi sức phản kháng, sự tồn tại của Mị được đánh dấu bằng các công việc lặp đi lặp lại. Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bưng ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.

Người vợ nhặt trong câu chuyện của Kim Lân không phải chịu cảnh áp bức bóc lột của chế độ phong kiến và thần quyền miền núi nhưng kiếp sống ấy bị chính bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật chà đạp. Trong chuyện không thể xuất hiện bóng dáng của những tên đế quốc đó, nhưng sự hoành hành của nạn đói là bằng chứng tố cáo đanh thép nhất về tội ác của chúng. Cái đói làm người chết như ngả rạ, người sống xanh xám như những bóng ma. Cái đói làm chị vợ nhặt gầy đét. Trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn đôi mắt trũng hoáy. Cái đói làm chị tối mắt trước cái ăn, chấp nhận bỏ lại thể diện khi ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Khủng khiếp hơn cái đói khiến chị liều lĩnh chấp nhận theo không anh cu Tràng, chẳng biết anh Tràng là người như thế nào. Thân phận con người tưởng chừng như không thể lẻ rúng hơn được nữa. Có lẽ Thị là hình ảnh thê thảm nhất của người phụ nữ trong văn học Việt Nam hiện đại.

Hai nhân vật với hai số phận, hai hoàn cảnh, hai thời đại khác nhau nhưng ở họ luôn hiện lên là những người phụ nữ cam chịu, khổ cực, chịu thương, chịu khó. Người Vợ Nhặt dù cái đói đã làm mờ nhạt đi những vẻ đẹp trong tâm hồn chị nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là những nét đẹp, những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đối với Mị, dù sống trong hoàn cảnh cùng cực, bị chà đạp bởi thể xác và tâm hồn tưởng chừng như mất hết ý thức làm người, không còn thiết tha với cuộc sống. Nhưng ẩn sâu trong tâm hồn cô gái ấy chính là sức sống tiềm tàng luôn được khơi dậy lên bất kỳ lúc nào.

Qua hai tác phẩm, ta thấy được số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ hiện lên trong các trang văn luôn khổ cực, cam chịu, nhẫn nhục. Nhưng ẩn sâu trong họ vẫn là những nét đẹp mang đậm đà bản sắc người phụ nữ Việt Nam, chịu thương, chịu khó, hiền hậu, thủy chung, chăm chỉ, những ước mơ, khát vọng luôn hiện hữu trong họ.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Ngọc Uyên

27/09/2025

Thời đại nào số phận người phụ nữ cũng là điều khiến người cầm bút trăn trở nhiều nhất. Những trang văn viết về họ bao giờ cũng là những trang viết ám ảnh, để lại trong lòng người đọc nhiều trăn trở hơn cả đã. Qua rất lâu thời của những cô Mị, thời của những người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Nhưng câu chuyện về mỗi thân phận mỗi cảnh đời của người xưa vẫn làm ta khôn nguôi.

Mị, người vợ nhặt hai con người ấy là hai số phận có thể nói là cùng khổ trong xã hội cũ. Mỗi người một cảnh ngộ riêng nhưng số phận của họ đều chung một màu đen.

Là một cô gái lao động miền núi ở Mị hội tụ tất cả những nét đẹp của một thiếu nữ xinh đẹp, tài giỏi, đảm đang, hiếu thảo.Chỉ bằng vài chi tiết nhỏ Tô Hoài đã khiến chúng ta phải say mê vẻ đẹp của bông hoa núi rừng, huống gì những thanh niên trai bản đã bị bị hút hồn ngày đêm thổi sáo cho Mị. nhưng điều cay đắng nhất là đóa hoa bản Mèo lại không được ném pao chọn người yêu, không được tìm người yêu trong phiên chợ tình. Mị sớm chịu cảnh làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ. Nay đứa con gái phải gánh trả bằng cả hạnh phúc, tuổi trẻ của mình. Mị về làm dâu nhưng thực chất là làm người ở cho nhà Thống Lý, lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi gánh nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Câu văn của Tô Hoài vừa giúp chúng ta hình dung sự vất vả, vừa cho thấy được những tâm trạng của nhân vật. Công việc cực nhọc không làm Mị nguôi đi những cay đắng. Trong cuộc đời Mị nín nặng, mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Bao nhiêu ngày ở nhà thống lý là bấy nhiêu ngày Mị cam chịu sống trong địa ngục trần gian. Điều đáng thương nhất là sự áp bức của chế độ phong kiến và thần quyền miền núi đã làm Mị tê liệt đi sức phản kháng, sự tồn tại của Mị được đánh dấu bằng các công việc lặp đi lặp lại. Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bưng ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.

Người vợ nhặt trong câu chuyện của Kim Lân không phải chịu cảnh áp bức bóc lột của chế độ phong kiến và thần quyền miền núi nhưng kiếp sống ấy bị chính bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật chà đạp. Trong chuyện không thể xuất hiện bóng dáng của những tên đế quốc đó, nhưng sự hoành hành của nạn đói là bằng chứng tố cáo đanh thép nhất về tội ác của chúng. Cái đói làm người chết như ngả rạ, người sống xanh xám như những bóng ma. Cái đói làm chị vợ nhặt gầy đét. Trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn đôi mắt trũng hoáy. Cái đói làm chị tối mắt trước cái ăn, chấp nhận bỏ lại thể diện khi ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Khủng khiếp hơn cái đói khiến chị liều lĩnh chấp nhận theo không anh cu Tràng, chẳng biết anh Tràng là người như thế nào. Thân phận con người tưởng chừng như không thể lẻ rúng hơn được nữa. Có lẽ Thị là hình ảnh thê thảm nhất của người phụ nữ trong văn học Việt Nam hiện đại.

Hai nhân vật với hai số phận, hai hoàn cảnh, hai thời đại khác nhau nhưng ở họ luôn hiện lên là những người phụ nữ cam chịu, khổ cực, chịu thương, chịu khó. Người Vợ Nhặt dù cái đói đã làm mờ nhạt đi những vẻ đẹp trong tâm hồn chị nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là những nét đẹp, những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đối với Mị, dù sống trong hoàn cảnh cùng cực, bị chà đạp bởi thể xác và tâm hồn tưởng chừng như mất hết ý thức làm người, không còn thiết tha với cuộc sống. Nhưng ẩn sâu trong tâm hồn cô gái ấy chính là sức sống tiềm tàng luôn được khơi dậy lên bất kỳ lúc nào.

Qua hai tác phẩm, ta thấy được số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ hiện lên trong các trang văn luôn khổ cực, cam chịu, nhẫn nhục. Nhưng ẩn sâu trong họ vẫn là những nét đẹp mang đậm đà bản sắc người phụ nữ Việt Nam, chịu thương, chịu khó, hiền hậu, thủy chung, chăm chỉ, những ước mơ, khát vọng luôn hiện hữu trong họ.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved