9 giờ trước
9 giờ trước
9 giờ trước
Mở đầu: Vì sao ô nhiễm môi trường là bài thảo luận đáng làm?
Ô nhiễm môi trường không còn là khái niệm xa lạ, mà là thực trạng “chạm ngõ” từng gia đình: không khí mù bụi, nước sông đen đặc, tiếng ồn dày đặc, rác thải nhựa tràn lan. Làm bài thảo luận về vấn đề này không chỉ để lấy điểm, mà để mỗi người nhìn lại thói quen sống, hiểu nguyên nhân - hệ quả - giải pháp, từ đó biến nhận thức thành hành động.
Thực trạng: Ô nhiễm đang diễn ra như thế nào?
- Ô nhiễm không khí: Xe cộ dày đặc, bụi mịn từ công trình, khí thải công nghiệp khiến chất lượng không khí nhiều đô thị suy giảm, tác động trực tiếp đến hô hấp và tim mạch.
- Ô nhiễm nước: Nước thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp chưa xử lý triệt để đổ ra sông hồ; nhiều vùng nông thôn cũng bị ảnh hưởng bởi tồn dư thuốc bảo vệ thực vật.
- Ô nhiễm đất và rác thải nhựa: Túi nilon, hộp xốp, vi nhựa tồn lưu hàng chục đến hàng trăm năm, làm thoái hóa đất, len vào chuỗi thức ăn.
- Ô nhiễm tiếng ồn/ánh sáng: Tiếng còi xe, công trường, bảng LED quá sáng gây rối loạn giấc ngủ, căng thẳng, giảm năng suất.
Điểm chung của các dạng ô nhiễm là gia tăng nhanh hơn năng lực xử lý hiện có, tạo áp lực lớn lên y tế, nông nghiệp và du lịch.
Nguyên nhân gốc rễ: Không chỉ do công nghiệp
- Ý thức cá nhân: Vứt rác bừa bãi, đốt rác, lạm dụng túi nilon, thói quen di chuyển bằng phương tiện cá nhân.
- Sản xuất - đô thị hóa: Một số cơ sở xả thải chưa đạt chuẩn; quy hoạch chưa đồng bộ hạ tầng xử lý nước thải, rác thải.
- Quản trị - thực thi: Chế tài có nhưng khâu giám sát, kiểm tra, và minh bạch dữ liệu môi trường còn khoảng trống.
- Thị trường - tiêu dùng: Sản phẩm rẻ nhưng “đắt” về môi trường; vòng đời ngắn, khó tái chế.
Hệ quả: Cái giá phải trả là sức khỏe và tương lai
- Sức khỏe cộng đồng: Bệnh hô hấp, tim mạch, dị ứng, ung thư tăng; trẻ em và người cao tuổi là nhóm dễ tổn thương.
- Kinh tế - xã hội: Thiệt hại do y tế, năng suất lao động giảm; du lịch suy giảm vì cảnh quan - nước biển - không khí kém hấp dẫn.
- Sinh thái: Đa dạng sinh học suy giảm, hệ sinh thái bị xáo trộn; đất bạc màu, nguồn nước suy kiệt.
Giải pháp: Từ lớp học đến cộng đồng
- Ở cấp cá nhân:
- Giảm nhựa dùng một lần; mang bình nước, túi vải, hộp đựng.
- Phân loại rác tại nguồn; dầu mỡ, pin, thiết bị điện tử bỏ đúng điểm thu gom.
- Ưu tiên đi bộ, xe đạp, phương tiện công cộng; chia sẻ xe khi có thể.
- Tiết kiệm điện, nước; chọn sản phẩm thân thiện môi trường.
- Ở cấp trường học/nhóm thảo luận:
- Xây dựng “bản đồ điểm nóng rác thải” khu vực; tổ chức ngày hành động dọn rác.
- Mời chuyên gia môi trường nói chuyện; triển khai góc phân loại rác và trạm đổi rác tái chế lấy quà xanh.
- Làm dự án nhỏ: đo bụi mịn, kiểm tra pH nước, truyền thông xanh trên bảng tin.
- Ở cấp chính sách - cộng đồng:
- Tăng giám sát xả thải; công khai dữ liệu chất lượng không khí, nước.
- Phát triển hạ tầng xử lý rác - nước thải đồng bộ; khuyến khích kinh tế tuần hoàn.
- Áp dụng “trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất” với bao bì nhựa; ưu đãi thuế cho sản phẩm xanh.
Kết luận & kêu gọi hành động
Ô nhiễm môi trường không phải bài toán của “ai đó”, mà là phép thử trách nhiệm của mỗi người. Hãy biến bài thảo luận thành cam kết sống xanh: mỗi nhóm một hành động cụ thể, mỗi tuần một thay đổi nhỏ. Bắt đầu từ hôm nay, bạn chọn giải pháp nào: bỏ rác đúng chỗ, giảm nhựa, hay đi xe buýt? Hãy chọn và làm ngay - vì sức khỏe của bạn, và tương lai xanh của cộng đồng.
9 giờ trước
Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước đã và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những thông tin môi trường bị ô nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, tình trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng. Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải, nước thải nên ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu đô thị đang ở mức báo động. Trong tổng số 183 khu công nghiệp trong cả nước, có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các đô thị chỉ có khoảng 60% - 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường... Hầu hết lượng nước thải chưa được xử lý đều đổ thẳng ra sông, hồ và dự báo đến năm 2010 là 510.000m3/ngày. Một ví dụ đau lòng của việc xả nước thải, là trường hợp sông Thị Vải bị ô nhiễm bởi hoá chất thải ra từ nhà máy của công ti bột ngọt Vê Đan suốt 14 năm liền.
Vậy nguyên nhân cho sự việc trên là gì? Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng của nhiều người dân. Nhiều người nghĩ rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một số người khác lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của chính quyền mà không phải là của mình. Số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì đi chăng nữa cũng không đáng kể, và việc ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng gì tới mình nhiều... Việc phá hoại môi trường của một người tuy chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng tập hợp nhiều người lại là lớn.Trách nhiệm bảo vệ môi trường tuy cũng có một phần là của nhà nước nhưng đa phần lại là của người dân.
Một nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần đáng kể gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, chính sự chưa chặt chẽ trong việc quản lý bảo vệ môi trường của nhà nước cũng đã tiếp tay cho các hành vi phá hoại môi trường. Việt Nam thiếu những chính sách và quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt, do đang thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư để phát triển nên dễ mắc vào "cạm bẫy": trở thành nơi tiếp nhận nhiều ngành công nghiệp "bẩn". Ví như, ngành cán thép làm tốn nhiều tài nguyên như đất, nước, năng lượng, thải ra những chất thải nguy hại cho môi trường. Ngoài ra, lượng xe cô lưu thông ngày càng nhiều ở nước ta cũng góp phần không nhỏ vào việc gây ô nhiễm bầu không khí.
Bên cạnh đó là những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ môi trường.
Quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; còn các biện pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉnh hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng không có hiệu quả.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường.
Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Cần chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội.
Tình trạng môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn có thể cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo vệ môi trường. Vì vậy, chúng ta cần chung tay bảo vệ môi trường và tránh gây ô nhiễm. Vì tương lai một Việt Nam xanh, sạch, đẹp và vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như của các thế hệ sau.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
4 giờ trước
Top thành viên trả lời