câu 1. * : Đoạn trích thuộc thể loại nhật ký.
* : Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm.
* : Nội dung chính của đoạn trích là ghi lại những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả khi tham gia chiến dịch Quảng Bình năm 1972. Tác giả kể về việc chứng kiến cảnh tượng hào hùng của chiến trường, mong muốn được trực tiếp tham gia chiến đấu, và tâm trạng háo hức, xúc động khi lên tàu hỏa để vào Nam.
* : Những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích là:
- Ngôn ngữ giản dị, chân thật: Tác giả sử dụng ngôn ngữ đời thường, mộc mạc, dễ hiểu, phản ánh chân thực tâm tư, tình cảm của người viết.
- Cách kể chuyện sinh động: Tác giả sử dụng nhiều chi tiết cụ thể, hình ảnh gợi tả, tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống và chiến đấu của người lính.
- Biểu cảm sâu sắc: Tác giả bộc lộ rõ ràng những cảm xúc, suy nghĩ của mình, khiến người đọc cảm nhận được sự nhiệt huyết, lòng yêu nước và tinh thần lạc quan của người lính.
- Sử dụng biện pháp tu từ: Tác giả sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa... nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn.
* : Qua đoạn trích, em rút ra được bài học về ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần lạc quan, yêu nước của người lính Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Họ sẵn sàng hy sinh bản thân để bảo vệ Tổ quốc, luôn giữ vững niềm tin vào tương lai tươi sáng.
* : Trong đoạn trích, tác giả đã thể hiện thái độ trân trọng, ngưỡng mộ đối với những người lính Việt Nam. Ông ca ngợi tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước, sự hi sinh cao cả của họ. Đồng thời, ông cũng bày tỏ sự tiếc thương trước những mất mát, đau thương mà chiến tranh mang lại.
* : Thông điệp ý nghĩa nhất đối với em là tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính. Dù trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, họ vẫn giữ vững niềm tin vào tương lai, luôn hướng về phía trước với tinh thần lạc quan, yêu đời. Điều này giúp họ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, góp phần vào chiến thắng chung của dân tộc.
câu 2. 10.4.72 (Nghi Lộc – Nghệ An)
d. Tập trung nghe chiến thắng của miền Nam, ta đã chiếm hoàn toàn cảng Cửa Việt – và vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đang ào ào khí thế nổi dậy của hàng chục vạn đồng bào. Lúc ấy, mình ao ước được đến thẳng chiến trường, đến giữa chiến trường mà tận mắt thấy cảnh tượng hào hùng ấy. Hay ít ra, được đến gần, rất gần chiến trường được đến Quảng Bình chẳng hạn - ở đó địch đang bắn phá mình dân cư cũng phải sơ tán về Hà Nội – và cũng ở đó đang thắng lớn có ngày bắn rơi mười mấy máy bay, có chiếc B-52... "Cầu được, ước thấy" – vừa ao ước thế, vừa buồn vì mình đang ngồi ở đây, dưới trời mưa thanh thản, rồi sắp lên tàu Mỏ Trạng, diễn tập. Nhưng ra ga, thì lính òa lên phấn khởi, đầu tàu hướng về Hà Nội – "Đi" rồi! Thế là nhất định vào trong ấy. Vội vàng viết thư – Tàu qua cửa Nam những cánh thư trắng bay ào ạt xuống đường gửi hộ nhé, gửi hộ nhé – Báo cho những người thân chúng tôi rằng, chúng tôi đã xa Hà Nội lúc ấy là 12 giờ trưa 9 tháng 4 năm 1972. Biết bao nhiêu lần hành quân, nhưng chẳng lần nào xúc động như chuyến tàu này cả - Chuyến tàu đi đúng con đường dành cho nó – vào Nam. Ở đó, chiến trường đang cần đến những cánh tay khỏe mạnh đang thò ra cửa sổ toa tàu mà vẫy gọi khách qua đường – Phải, lúc mà một anh bộ đội gặp được người nhà trên sân ga hay dọc theo đường sắt – Thì đó không phải chỉ một mình anh xúc động và vui sướng. Mà đó là niềm vui và nỗi xúc động của tất cả đoàn tàu. Con đi mẹ nhé! Đi nhé! Đi nhé! Những cô gái cũng hết cả rụt rè cũng giơ cả hai tay lên vẫy mãi… Rồi tinh nghịch lấy ngón tay nhỏ xíu trỏ lên đầu nhắc anh bộ đội hãy giữ gìn cuộc sống của mình. Ừ, chết làm sao được cơ chứ, đùa một chút cho vui. Ai cũng bị lây cái không khí rạo rực khí thế lên đường ấy, Cả những em bé vừa đứng vững dấu mặt sau những hàng rào xi măng mà vẫy. Y cứ xuýt xoa mãi vì ngồi bên cửa sổ, nó nghe rành rọt tiếng một đứa bé chỉ 5, 6 tuổi ở ga Phủ Lý. Các chú đánh xong giặc Mỹ mà về nhé! – Đấy tiếng nói của trẻ thơ, là ước muốn day dứt của hàng triệu, hàng triệu người trên Trái Đất. Ta đi theo tiếng gọi của Miền Nam, và cả sự thôi thúc của Miền Bắc đang khôi phục – Một nhà ga Ninh Bình vừa dựng bên núi Đá, một dòng sông Đáy xanh lững lờ trôi vào bài thơ trữ tình ngọt lịm của Tố Hữu, một Chùa Non Nước còn âm vang chiến công của Tổ Ba Người Giáp Văn Khương… Tất cả đang giục giã anh chiến sĩ, hãy đi đi, hãy đi – Và chiến thắng.
(Mãi mãi tuổi 20 – Nguyễn Văn Thạc)
Phân tích:
* Liệt kê một số chi tiết có tính xác thực trong nhật ký 10/4/1972:
* Địa danh: Nghi Lộc – Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Bình, Phủ Lý,...
* Thời gian: 10/4/1972
* Sự kiện: Chiến dịch Quảng Trị, chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, chiến dịch Hồ Chí Minh,...
* Tác dụng của chúng:
* Tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống, tâm tư, tình cảm của nhân vật chính trong nhật ký.
* Thể hiện rõ nét bối cảnh lịch sử, xã hội, giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về hoàn cảnh, tâm trạng của nhân vật.
* Tăng cường tính chân thực, thuyết phục cho nhật ký.
* Gợi lên lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng.
câu 3. Qua đoạn trích, hình dung về bối cảnh của cuộc hành quân:
- Bối cảnh rộng: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ, ác liệt; nhân dân Việt Nam quyết tâm giành độc lập, thống nhất đất nước.
- Bối cảnh hẹp: Đoàn tàu chở bộ đội vượt Trường Sơn vào giải phóng miền Nam.
câu 4. Cảm hứng chủ đạo của đoạn trích là lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng hòa bình, độc lập tự do cho quê hương, đất nước. Tác giả thể hiện rõ ràng mong muốn được tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần bảo vệ Tổ quốc.
câu 5. Cái "tôi" của tác giả nhật ký thể hiện qua đoạn trích:
- Tác giả thể hiện rõ cảm xúc cá nhân trước những sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước.
- Thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng cống hiến cho Tổ quốc.
- Cái "tôi" của tác giả mang tính chất cá nhân, chân thật, phản ánh tâm tư, suy nghĩ của một người thanh niên thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.