Bài thơ "Tự tình II" nằm trong chùm thơ bao gồm 3 bài của tác giả Hồ Xuân Hương. Đây là một trong những bài thơ tự do viết bằng chữ Nôm nằm trong tập thơ mang tên "Lưu Hương kí". Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực về thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, khi họ phải chịu cảnh lấy chồng chung, đồng thời thể hiện thái độ bi quan, chán nản của họ trước hoàn cảnh số phận của mình.
Trước hết, hai câu đề đã nói lên thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ:
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non."
Thời gian được nhắc đến là vào đêm khuya thanh vắng, âm thanh tiếng trống cầm canh vang lên báo hiệu một ngày đã qua ngày mới lại đến. Thời gian một ngày đã tàn cũng giống như tuổi xuân của người phụ nữ đang trôi dần đi vậy, thời gian cứ lạnh lùng lướt qua mà không chờ đợi một ai. Không gian nơi đây thật quạnh hiu, tịch mịch đến rợn người. Từ láy "văng vẳng" miêu tả âm thanh từ xa vọng lại, tuy không biết nó xuất phát từ đâu nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận được sự cô đơn này. Trong không gian đó, nhân vật trữ tình xuất hiện cùng với thân phận đáng thương "trơ cái hồng nhan". Người phụ nữ ấy đang cố[INST] sổng lại giữa cuộc đời nhiều sóng gió, nhưng càng vùng vẫy lại càng bị cuốn sâu vào. Hai từ "hồng nhan" kết hợp với tính từ "trơ" đã cho thấy được nỗi đau thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Những người phụ nữ luôn được giáo dục phải hiền dịu, nết na, là người phụ nữ "công - dung - ngôn - hạnh", thế nhưng ở đây Hồ Xuân Hương lại gọi đầy mỉa mai. "Trơ" ở đây có nghĩa là bền vững, cứng cỏi, nhưng đặt trong hoàn cảnh của người phụ nữ thì nó lại càng tô đậm nên nỗi đau thân phận. Hồng nhan bạc mệnh, xinh đẹp nhưng không được coi trọng, càng về cuối bài thơ, nỗi đau thân phận sẽ càng bộc lộ rõ nét hơn.
Nếu như hai câu đề chỉ dừng lại ở việc gợi ra thời gian, không gian nghệ thuật thì hai câu thực đã bắt đầu nói lên những nỗi niềm tâm sự của người phụ nữ.
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn."
Ở đây, Hồ Xuân Hương đã mượn rượu giải sầu, uống rượu với mong muốn quên đi tất cả nhưng khi tỉnh dậy thì mọi thứ vẫn còn nguyên ở đó, không có gì thay đổi. Vầng trăng trên trời cao vào đêm khuya rất sáng, đó là vầng trăng đẹp nhất, nhưng nó lại khuyết chứ không tròn đầy. Có lẽ rằng cũng giống như người phụ nữ kia, họ đang sống trong cảnh lỡ làng, dở dang, lấy chồng nhưng không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Sang hai câu thơ luận, dường như nỗi niềm phẫn uất của nhân vật trữ tình đã được bộc lộ rõ nét hơn:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn."
Hai câu thơ này đã sử dụng những động từ mạnh như "xiên", "đâm" cùng với bổ ngữ "ngang", "toạc" để diễn tả sức sống mãnh liệt của loài rêu yếu đuối. Rêu thì cũng chỉ là một loài yếu ớt, bé nhỏ, thế nhưng nó vẫn có sức sống, sinh sôi nảy nở mạnh mẽ, có thể "xiên ngang mặt đất", hướng thẳng lên trên để đón ánh nắng mặt trời. Còn những hòn đá, chúng đứng cheo leo trên những vách núi cao hiểm trở. Biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào hành động của rêu và đá. Thiên nhiên quanh co cũng giống như số phận của người phụ nữ, gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sự phản kháng mạnh mẽ.
Cuối cùng, khép lại bài thơ là hai câu kết:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!"
Từ "xuân" ở đây vừa có ý nghĩa chỉ mùa xuân, đồng thời còn là tuổi xuân. Mùa xuân của thiên nhiên thì cứ chảy trôi theo quy luật của tạo hóa, nhưng mùa xuân của đời người lại không như vậy. Tuổi xuân của người phụ nữ họ đã sớm dự cảm được sự chảy trôi nhanh chóng của thời gian, thế nên họ càng tiếc nuối hơn. Đặc biệt, cụm từ "lại lại" đã cho thấy sự tuần hoàn vô tận, và trong vòng tuần hoàn ấy, người phụ nữ lại thêm một lần nữa cảm thấy ngao ngán. Họ có chồng đấy, nhưng có giữ được chồng hay không thì lại là một chuyện khác. Cuộc sống hôn nhân của họ không được hạnh phúc, bởi vì đây là cuộc hôn nhân không có tình yêu. Mảnh tình vốn đã ít, chia sớt lại càng ít hơn, để rồi cuối cùng chỉ còn lại "tí con con". Câu thơ này đã cho thấy được sự xót xa, tội nghiệp cho những người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.
Như vậy, bài thơ "Tự tình II" đã khắc họa một cách chân thực về thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đồng thời, Hồ Xuân Hương cũng thể hiện thái độ bi quan, chán nản của họ trước số phận của mình. Tất cả những điều đó đều cho thấy niềm thương cảm đối với số phận người phụ nữ mà tác giả muốn gửi gắm. Với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cùng những biện pháp tu từ đặc sắc, bài thơ đã truyền tải được nội dung mà tác giả muốn gửi gắm.