Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm "Truyện Kiều" - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài "Truyện Kiều" còn có nhiều bài thơ chữ Hán, chữ Nôm đặc sắc. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" được trích từ "Truyện Kiều" kể lại tâm trạng của Thúy Kiều trong thời gian ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" gồm 22 câu là một bức tranh thiên nhiên nhưng chính là bức tranh tâm trạng có màu sắc, đường nét của ngoại cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều.
Nỗi nhớ thương của Kiều được bộc lộ qua hai mối quan hệ và hai nỗi nhớ: nhớ người yêu và nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ già. Với người yêu, đó là chàng Kim:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày mong mai chờ."
Với cha mẹ, nàng luôn ân hận vì đã không chăm sóc được cha mẹ lúc tuổi già sức yếu:
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?"
Trong cảnh ngộ bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều là người đáng thương nhất. Nàng đau đớn xót xa cho thân phận, tình cảnh trớ trêu của mình. Trước hết, tám câu thơ mở đầu đoạn trích là bức tranh phong phú, tinh tế của ngoại cảnh hòa trong tâm cảnh của Thúy Kiều. Đó là bức tranh về lầu Ngưng Bích được miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến cụ thể. Khung cảnh được bắt đầu bằng những gam màu nhạt nhẹ: "Bốn bề bát ngát xa trông", "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia". Những từ láy "bát ngát", "bát ngát" gợi lên không gian mênh mông, rộng lớn nơi núi rừng, sông nước bao la. Không gian ấy càng trở nên mênh mông hơn khi xuất hiện những cụm từ chỉ sự xa cách: "cát vàng cồn nọ", "bụi hồng dặm kia". Trong không gian rộng lớn, mênh mông ấy, nổi bật lên hình ảnh "một màu xanh xanh" của bầu trời. Bầu trời thăm thẳm, trải dài ngút ngàn mà chỉ có một màu "xanh xanh", không hề có chút sắc màu nào khác khiến cho Thúy Kiều càng trở nên lạc lõng, cô đơn. Và cái lầu cao ngất nghểu, cheo leo như vậy càng trở nên vô cùng nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
Không gian mênh mông, rộng lớn, không một bóng người, chỉ có một mình Thúy Kiều ngồi trên lầu Ngưng Bích với biết bao tâm trạng:
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."
Từ láy "bẽ bàng" đã diễn tả tâm trạng xấu hổ, tủi thẹn của Thúy Kiều. Nàng rất xấu hổ và tủi thẹn bởi đang là một thiếu nữ nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, mà giờ đây lại bị đem ra mua bán như một món hàng ngoài chợ. Vì thế, nàng chỉ còn biết ngày đêm sống trong cô đơn, buồn tủi với cảnh vật. Cảnh vật ở lầu Ngưng Bích cũng gợi lên tâm trạng của Thúy Kiều. Buổi sớm thì nhìn thấy đám mây bay, buổi tối thì nhìn thấy ngọn đèn soi chiếu. Tất cả đều gợi lên sự lê thê, vô định, mờ mịt không có lối thoát.
Chính trong những ngày cô đơn, buồn tủi ấy, Thúy Kiều lại nhớ về những kỉ niệm hạnh phúc:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày mong mai chờ."
Đó là những kỉ niệm khi Thúy Kiều, Thúy Vân cùng nhau thề nguyền dưới ánh trăng. Thúy Kiều nhớ về Kim Trọng, nhớ về những lời thề nguyền son sắt, nhớ về những kỉ niệm hạnh phúc. Nàng càng xót xa, đau đớn vì không biết bao giờ mới có thể gặp lại chàng Kim. Càng nghĩ, nàng càng buồn, càng thất vọng, tuyệt vọng:
"Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
Những từ ngữ như "bơ vơ", "chẳng lám sao" đã thể hiện tâm trạng đau đớn, thất vọng của Thúy Kiều. Nàng tự coi mình là kẻ phụ tình. Còn gì đau đớn, tủi nhục hơn khi người con gái bị mang tiếng là phụ bạc người yêu để chạy theo vinh hoa phú quý của giặc Mã. Nỗi đau ấy chỉ có thể chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ.
Nhớ người yêu, Thúy Kiều lại nhớ về cha mẹ. Dù đang trong cảnh ngộ cô đơn, tội nghiệp nhưng nàng vẫn nghĩ về cha mẹ, lo lắng cho cha mẹ:
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?"
Trong tâm trí của nàng, nàng tự hỏi ai sẽ quạt cho cha mẹ ngủ khi trời nóng, ai sẽ sưởi ấm cho cha mẹ khi trời giá rét. Ở đây, chúng ta có thể thấy, Thúy Kiều là người con hiếu thảo. Nàng đã quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng cho cha mẹ. Qua đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", ta thấy được tâm trạng cô đơn, buồn tủi, nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Đồng thời, đoạn trích cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tài tình của nhà thơ Nguyễn Du.