Nguyễn Du tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn chương. Cha của ông là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca. Chính điều này đã ảnh hưởng rất nhiều tới tài năng thơ ca của ông. Tuổi trẻ của Nguyễn Du từng lăn lộn, sống nghèo khổ nhiều nơi, từng chứng kiến sự áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị đương thời. Sau khi Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Du đã ra làm quan với triều đình nhà Nguyễn. Năm 1813-1814, ông được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. Năm 1820, ông được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì ngày 10/8 âm lịch năm Canh Thìn 1820, ông mất đột ngột trong một trận dịch lớn. Nguyễn Du đã để lại cho nền văn học Việt Nam một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với những tác phẩm có giá trị cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Tác phẩm của ông thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, luôn đứng về phía những con người nhỏ bé, bất hạnh để bênh vực và lên án những thế lực xấu xa. Tiêu biểu cho sáng tác của ông là Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh,...
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu về gia đình và bối cảnh của nhân vật chính. Đoạn trích tập trung khắc họa vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi.
Trước hết, bốn câu thơ đầu tiên được dành để miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân:
"Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười."
Hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân được giới thiệu là hai người con gái xinh đẹp của Vương viên ngoại. Họ mang vẻ đẹp thanh tao, trinh trắng như mai, như tuyết; tâm hồn trong sáng như mai, như tuyết. Mỗi người có một nét đẹp riêng nhưng đều đạt đến độ hoàn mĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo được dành để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
"Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da."
Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu. Nàng có khuôn mặt tròn đầy, sáng sủa như ánh trăng rằm; đôi mày dài, đậm như con ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo, ngọt ngào như tiếng ngọc. Tóc nàng đen mướt đến mây cũng phải thua; da nàng trắng ngần hơn tuyết. Vẻ đẹp của Thúy Vân khiến thiên nhiên cũng phải ghen tị, nhường nhịn. Đó là dấu hiệu của một cuộc sống yên ổn, vinh hoa, phú quý đang chờ đợi nàng ở phía trước.
Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du tập trung vào miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh."
Thúy Kiều hiện lên với vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà, vượt trội hơn Thúy Vân cả về tài lẫn sắc. Nàng có đôi mắt trong veo như nước mùa thu; đôi mày thanh tú như dáng núi mùa xuân; dung nhan đằm thắm, làn da trắng mịn màng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn. Đó là vẻ đẹp tuyệt trần, khiến cho đất trời cũng phải ghen ghét, đố kị. Đồng thời, đó cũng là dự báo cho một cuộc đời nhiều thăng trầm, sóng gió đang chờ đợi nàng ở phía trước.
Cuối cùng, Nguyễn Du miêu tả cuộc sống phong lưu, êm đềm của hai chị em Thúy Kiều:
"Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai."
Hai chị em Thúy Kiều sống trong một gia đình khá giả, có cha mẹ thương yêu, chiều chuộng. Họ sống trong một căn nhà rộng rãi, kín đáo; có người hầu kẻ hạ chăm sóc chu đáo. Tuổi cập kê, chưa từng biết đến tình yêu nam nữ.
Như vậy, đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã khắc họa thành công vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi. Qua đó, tác giả đã thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của con người, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng báo hiệu số phận éo le, đau khổ của Thúy Kiều do tài sắc quá mức.