Bài thơ "Qua Đèo Ngang" được viết trong dịp Bà Huyện Thanh Quan đi nhận chức ở Phú Xuân (Huế). Bài thơ mang đậm nét buồn của thời đại, gửi gắm nỗi niềm tâm sự của tác giả. Đó là nỗi nhớ nhà, quê hương, thương cho thân phận người con gái yếu đuối đường xa.
Hai câu đề đã mở ra một khoảng không gian, thời gian cụ thể: chiều tà hoàng hôn, ánh sáng chỉ còn le lói, nhạt nhòa. Chỉ bằng vài nét chấm phá, tác giả đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên nơi đèo Ngang bao la, rợn ngợp:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Thời gian là buổi chiều tà, không gian là toàn bộ không gian, cảnh vật đều nhuốm màu buồn bã, u sầu. Thời gian buổi chiều gợi nỗi buồn, sự trống vắng, hoài niệm. Không gian càng thêm rộng lớn, bao la, con người trở nên bé nhỏ, yếu đuối, dễ tổn thương hơn. Trong cảnh đó, hình ảnh con người thấp thoáng ẩn hiện:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nghệ thuật đảo ngữ đặt cụm từ "lom khom" lên đầu câu đã nhấn mạnh dáng đứng lom khom của những chú tiều, nhưng cho dù dáng vẻ có như thế nào đi chăng nữa thì với cử động "lom khom" thật vất vả, khổ cực. Con người ấy còn được khắc họa qua từ "tiều vài chú". Từ "vài" gợi lên sự ít ỏi, thưa thớt, con người trở nên mờ nhạt, gần như tan biến vào thiên nhiên. Họ sống lặng lẽ, âm thầm với công việc thường ngày, cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, đơn điệu.
Từ láy "lác đác" diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những ngôi nhà. Không gian quá rộng lớn, bao la khiến con người đã nhỏ bé càng trở nên bất lực, yếu đuối hơn. Tác giả đã khéo léo đặt từ chỉ số lượng ít "vài", "mấy" kết hợp với từ láy gợi sự thưa thớt, rời rạc "lom khom", "lác đác" tạo nên bức tranh thiếu sức sống. Thiên nhiên đẹp đẽ, hùng vĩ nhưng con người nhỏ bé, cô đơn, đáng thương biết bao.
Trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, con người xuất hiện nhỏ bé, chỉ là một chấm buồn lặng lẽ giữa rừng sâu. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp với đối trong câu cuối:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Tiếng chim quốc kêu "cuốc cuốc", tiếng gia gia kêu "mỏi miệng". Cách ngắt nhịp 3/3 tạo nên nhịp điệu trầm bổng như tiếng khóc than, nỗi lòng thương nhớ quê hương, thương nhớ nhà. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo thể hiện tài năng của nữ sĩ. Hai tiếng "gia gia" vừa là tiếng chim vừa là tên của nhân vật trữ tình. Chữ "nhớ nước" và "thương nhà" được tác giả tách ra, lặp lại hai lần nhấn mạnh nỗi niềm da diết, khôn nguôi.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ trang trọng, điêu luyện kết hợp với nghệ thuật chơi chữ đặc sắc, Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện nỗi niềm xót xa, thương nhớ quê hương khi phải xa quê hương, lẻ loi một mình nơi đất khách quê người.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, tác giả vẽ nên bức tranh đời sống con người nơi đèo Ngang:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Sau khi nhìn thấy cảnh vật, tác giả bắt gặp cảnh đời sống sinh hoạt của con người:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ đặt từ "một mảnh tình riêng" lên đầu câu giống như một lời khẳng định chắc nịch, mạnh mẽ về tâm trạng của chính mình. Mảnh tình riêng ấy không ai chia sẻ, trò chuyện chỉ có "ta với ta". Nó gợi lên sự cô đơn, lẻ loi, trống vắng. Nỗi buồn ấy dường như trỗi dậy, dâng lên tầng tầng lớp lớp như cơn sóng lòng lao xao.
Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng mở ra thế giới tâm trạng đa chiều của nỗi buồn, nỗi cô đơn:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc. Tất cả dồn nén, đẩy lên đỉnh điểm của cảm xúc thi sĩ. Sự cô đơn, lẻ loi của tác giả vì thế mà càng sâu sắc hơn. Bao nhiêu mong chờ, hi vọng nay bỗng chốc trở thành vô ích, hụt hẫng.
Bài thơ "Qua Đèo Ngang" là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo cũng như tâm hồn tinh tế nhạy cảm của tác giả. Đồng thời, bài thơ còn thể hiện nỗi niềm tâm sự của tác giả về nhân cách, về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.