
6 giờ trước
4 giờ trước
KHÚC HÁT CỦA DÒNG SÔNG VẮNG
Dòng sông Mã chảy qua bao đời vẫn mang trong mình những bí mật nằm sâu dưới lớp phù sa cổ kính. Ở một khúc quanh vắng vẻ, nơi lau sậy mọc um tùm và sương mù che phủ mặt nước suốt bốn mùa, người ta vẫn thường kể cho nhau nghe về một gia đình thuyền chài kỳ lạ. Đó không chỉ là câu chuyện về cuộc mưu sinh trên sóng nước, mà còn là một huyền thoại về tình người, lòng hiếu thảo và sự hóa thân kì diệu.
Ngày ấy, có hai vợ chồng trẻ sống trên một chiếc thuyền nan rách nát. Người chồng tên là Nghĩa, khỏe mạnh và thật thà; người vợ tên là Thảo, nết na, dịu hiền. Gia sản quý giá nhất của họ là tấm lưới cũ đã vá đi vá lại nhiều lần và một người mẹ già mù lòa mà họ hết lòng phụng dưỡng. Cuộc sống của họ lênh đênh theo con nước, bữa đói bữa no nhưng tiếng cười và lời ca chưa bao giờ dứt trên khoang thuyền hẹp.
Mùa đông năm ấy đến sớm và khắc nghiệt lạ thường. Những cơn gió bấc tràn về, rít lên từng hồi qua những nan liếp thưa thớt. Mặt sông phẳng lặng bỗng trở nên dữ dội, xám xịt như màu chì. Giữa cái lạnh thấu xương, bà mẹ già bỗng đổ bệnh nặng. Căn bệnh quái ác khiến bà không thể ăn uống, chỉ nằm thoi thóp trên sập gỗ cũ. Thảo thức trắng đêm bên ánh đèn dầu leo lét, nước mắt rơi lã chã trên đôi tay gầy guộc của mẹ. Bao nhiêu cá tôm đánh được, Nghĩa đều mang đổi lấy thuốc quý nhưng bệnh tình của mẹ vẫn chẳng hề thuyên giảm.
Một đêm, trong cơn chập chờn vì mệt mỏi, Thảo mơ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc hiện lên giữa làn sương khói. Cụ bảo: “Ở phía thượng nguồn, nơi dòng sông xoáy mạnh vào vách đá Thần, có một loài cá vảy bạc lấp lánh như ánh sao. Nếu con lấy được gan loài cá ấy nấu canh cho mẹ uống, đôi mắt bà sẽ sáng lại, sức khỏe sẽ phục hồi. Nhưng đường đi gian nan, nếu lòng không thành, mạng sống khó bảo toàn.”
Tỉnh dậy, Thảo đem chuyện kể cho chồng. Không một chút ngần ngại, Nghĩa quyết định lên đường ngay trong đêm. Anh nhìn vợ, nhìn mẹ già rồi lặng lẽ đẩy thuyền ngược dòng. Thảo ở lại, vừa lo thuốc thang cho mẹ, vừa cầu nguyện cho chồng bình an giữa dòng nước dữ.
Những ngày Nghĩa đi, chiếc thuyền trở nên vắng lặng đến nao lòng. Một buổi sáng sớm, khi Thảo ra bến múc nước, chị bỗng thấy một chú chim nhỏ màu đen đang thoi thóp bên bờ lau. Cánh chim bị thương nặng, máu thấm đỏ cả lớp lông mềm. Lòng trắc ẩn trỗi dậy, Thảo nhẹ nhàng bế chú chim vào thuyền, dùng lá thuốc băng bó vết thương và nhường cả bát cháo loãng cuối cùng cho con vật tội nghiệp. Chị vuốt ve nó và thầm thì: “Chim ơi, hãy mau khỏe lại để còn bay về với mẹ cha.”
Sáu ngày trôi qua, Nghĩa trở về. Thân hình anh rã rời, quần áo rách nát, đôi mắt trũng sâu vì thiếu ngủ. Anh buồn bã gục đầu: “Anh đã đến được vách đá Thần, nhưng sóng quá lớn, cá bạc lặn sâu, anh không thể nào bắt được...” Cả căn thuyền bao phủ bởi sự im lặng đến đáng sợ. Đúng lúc ấy, chú chim nhỏ mà Thảo cứu bỗng cất tiếng hót líu lo rộn ràng. Nó bay vòng quanh một chiếc hũ đất cũ đặt ở góc thuyền, mổ vào nắp hũ liên tục.
Nghĩa tò mò mở nắp hũ ra. Một luồng sáng vàng óng ánh tỏa ra từ bên trong. Không phải là cá bạc, mà là những hạt ngọc lấp lánh được kết tinh từ những hạt lúa vàng óng nhất. Thảo sực nhớ lời vị tiên, chị đem những hạt ngọc ấy nấu thành cháo cho mẹ ăn. Lạ kỳ thay, bát cháo vừa chạm môi, đôi mắt bà lão bỗng từ từ mở ra, ánh sáng của sự sống trở lại, bà đã nhìn thấy các con sau bao năm mù lòa.
6 giờ trước
Ngày ấy, ở miền biển Đông mênh mang sóng nước, có một nhà thuyền chài vô danh. Không ai biết họ từ đâu đến, cũng chẳng ai rõ quê quán nơi nào, chỉ thấy hai vợ chồng quanh năm gắn đời mình với con nước. Chồng đem lưới chặn dòng sâu, vợ vác cần dài ra bến vắng. Sớm tinh sương gió lộng, họ chèo một mái thuyền ra khơi; đến khi trăng lên đầu ngọn sóng, thuyền lại trở về, cá treo từng xâu, ánh bạc lấp loáng trong đêm. Cuộc sống lam lũ nhưng yên lành, chỉ mong mỗi tối có bát cơm đầy, phản tre ấm hơi người.
Gần sáu mươi tuổi, trời mới cho họ một mụn con trai. Đêm sinh con, lưới vớt được một con cá mè to lạ thường, nên đặt tên con là Thúc Ngư, mong đời con gắn với phúc lành sông nước. Vợ chồng yêu con như ngọc, chỉ tiếc nhà nghèo, học hành là chuyện xa xỉ. Khi Thúc Ngư mười lăm tuổi, cha muốn con rời bỏ nghiệp chài đi học chữ thánh hiền. Nhưng cậu bé chỉ lắc đầu: sách không có cá, lời nói không đánh được cá, học để làm gì? Cha mẹ thương con, không nỡ ép. Thúc Ngư ngày ngày đi sớm về khuya, có khi hai ba hôm mới về. Hỏi thì cậu nói đang “tìm vợ”, mong có thêm người chung lưng gánh vác, lo cho cha mẹ lúc tuổi già. Nghe con nói chí tình, cha mẹ đành để mặc.
Một đêm nọ, biển động sương dày. Vợ chồng đánh được mẻ cá lớn, ham việc quên giờ về. Canh ba trống điểm, trời tối mịt, thuyền lạc lối. Bỗng xa xa le lói ánh đèn. Họ ghé thuyền lên bờ xin ngủ trọ. Kỳ lạ thay, vừa đến cổng đã nghe tiếng trong nhà gọi: “Ông thông gia đã đến. Một ông lão râu dài, mặt hiền từ bước ra đón tiếp. Chuyện trò chưa lâu, sáng sớm ông lão bảo hãy ở lại làm lễ cho con gái làm dâu. Khi được hỏi, ông lão cười nói: con gái ông là Ngọa Vân, đã cùng Thúc Ngư hẹn ước từ lâu.
Ngọa Vân ra chào, dung nhan thanh khiết như sương sớm. Nàng lễ bốn lạy trước bố mẹ chồng, cung kính dịu dàng. Vợ chồng thuyền chài mừng mà vẫn lo, chẳng rõ gia thế con dâu. Bữa cơm dọn lên toàn những vật lạ: con như rồng, con như ngựa, con như trẻ nô đùa, tuy nhỏ bé mà hình hài rõ ràng. Ông chài sợ không dám ăn, nhưng khi gắp thử thì mọi thứ đều chín ngon lạ lùng, hương vị chưa từng biết đến.
Lúc tiễn về, Ngọa Vân gọi hai “gã bán kình” đưa thuyền. Nàng dặn bố mẹ chồng nhắm chặt mắt vì chướng khí độc. Chỉ trong chốc lát, thuyền vượt muôn dặm, sóng trời cuồn cuộn, cá nhảy như mưa sao. Khi mở mắt, đã là bến cũ. Hai người đưa thuyền biến mất như mây tan. Nghe kể, Thúc Ngư thưa rõ: vợ là hải tiên ở đảo ấp, cuối tháng sẽ về làm lễ cưới. Cha lo xa ngàn dặm không kịp, con chỉ mỉm cười: “Vợ con có thuật rút đường”.
Quả nhiên cuối tháng, Ngọa Vân theo hai người lạ đến cưới, trông như người thường. Từ đó, bốn người sống trên thuyền, mỗi lần buông lưới cá đầy nửa khoang. Cá ngon, được giá, gia tư khá dần. Năm tháng trôi qua yên ổn.
Đêm mồng Bảy tháng Bảy, cha bảo làm lễ khất xảo. Đang khấn thì biển gầm dữ dội. Sóng dâng cuồn cuộn, làng xóm bị cuốn sạch. Ngọa Vân biết không thể giấu thân phận, liền hóa thành con cá khổng lồ, dài nghìn thước, chắn dòng nước dữ. Cả nhà vin râu cá thoát nạn. Khi nước rút, chỉ nhà thuyền chài còn nguyên vẹn.
Nhưng thiên cơ đã lộ. Ngọa Vân cầm tay chồng khóc nức nở. Nàng vốn là nữ học sĩ Long Cung, vì cứu người mà trái lệnh trời, nay không thể ở lại nhân gian. Nàng hát khúc biệt ly, lời chan chứa yêu thương và xót xa. Trước khi đi, nàng trao cho Thúc Ngư giọt ngọc trắng, dặn giữ lấy làm kỷ niệm, rồi theo sóng biển mà khuất dạng.
Từ đó, Thúc Ngư ở vậy phụng dưỡng cha mẹ. Mỗi khi trăng lên trên mặt nước, chàng lại nhớ đến người vợ hải tiên năm xưa, nhớ mối duyên người – tiên ngắn ngủi mà sâu như biển cả, để lại câu chuyện truyền kỳ còn vọng mãi cùng sóng gió biển Đông.
6 giờ trước
Tôi lớn lên bên một làng chài nhỏ ven biển, nơi những con sóng ngày đêm vỗ vào bờ cát trắng, mang theo mùi mặn mòi quen thuộc. Ở nơi ấy, người dân sống giản dị, gắn đời mình với con thuyền và tấm lưới. Trong rất nhiều câu chuyện được truyền miệng qua bao thế hệ, kì lạ và đáng nhớ nhất vẫn là câu chuyện về nhà thuyền chài của lão Hải Ngư – một người đánh cá nghèo nhưng có tấm lòng hiền hậu hiếm có.
Lão Hải Ngư sống một mình trong căn nhà gỗ cũ kĩ dựng sát mép biển. Mái nhà đã bạc màu theo năm tháng, vách gỗ chỗ mục chỗ lành, mỗi khi gió lớn lại rung lên kẽo kẹt. Cuộc sống của lão quanh năm thiếu thốn, bữa no bữa đói, nhưng lão chưa bao giờ than thân trách phận. Với lão, chỉ cần còn biển, còn thuyền, còn sức khỏe để ra khơi là đã đủ.
Một đêm nọ, trời bỗng nổi cơn giông dữ dội. Gió rít từng cơn, sóng biển cuộn lên trắng xóa, đập mạnh vào bờ như muốn nuốt chửng cả làng chài. Người dân ai nấy đều đóng chặt cửa, chỉ mong tai qua nạn khỏi. Riêng trong căn nhà thuyền chài nhỏ bé của lão Hải Ngư, ngọn đèn dầu vẫn le lói sáng. Đang ngồi vá lưới, lão bỗng nghe thấy một âm thanh lạ vọng từ ngoài khơi, như tiếng kêu cứu yếu ớt hòa lẫn trong tiếng gió gào.
Không kịp nghĩ ngợi nhiều, lão khoác áo, cầm đèn chạy vội ra bãi biển. Dưới ánh sáng mờ mờ, lão nhìn thấy một con cá lớn bị sóng đánh dạt vào bờ. Thân cá phát ra ánh sáng xanh nhạt kì lạ, đôi mắt trong veo như có linh hồn, nhìn lão đầy van nài. Lão Hải Ngư chợt động lòng thương, quên cả nỗi sợ hãi. Lão không nghĩ đến việc bắt cá đem bán, mà dốc hết sức mình đẩy con cá trở lại biển.
Ngay khi con cá chạm vào làn nước, một luồng sáng chói lòa lóe lên. Sóng gió bỗng dịu hẳn, mây đen tan dần, biển trở lại yên ả như chưa từng nổi cơn bão. Con cá biến mất vào lòng biển sâu, để lại lão Hải Ngư đứng lặng người giữa bãi cát ướt lạnh.
Tưởng rằng mọi chuyện chỉ là một giấc mộng trong đêm bão, nào ngờ từ hôm đó, những điều kì lạ liên tiếp xảy ra với nhà thuyền chài của lão Hải Ngư. Mỗi sáng thức dậy, lão đều thấy trước cửa nhà mình có những rổ cá tươi ngon, cá lớn cá nhỏ đủ loại. Ra khơi, lưới của lão lúc nào cũng nặng trĩu cá, trong khi nhiều thuyền khác phải quay về tay không. Điều lạ lùng hơn cả là căn nhà gỗ xiêu vẹo của lão dần trở nên chắc chắn, mái nhà không còn dột, vách gỗ cũng không còn nghiêng ngả dù lão chưa hề sửa chữa.
Dân làng thấy vậy thì bàn tán xôn xao. Có người ngưỡng mộ, có người ghen tị, lại có người cho rằng lão Hải Ngư đã gặp phải yêu quái biển khơi. Nhưng lão chỉ cười hiền, vẫn sống giản dị như trước, ngày ngày ra khơi, tối về vá lưới, chẳng hề khoe khoang hay giữ của riêng cho mình.
Một đêm trăng sáng, khi biển lặng như tờ, lão Hải Ngư đang ngồi trước hiên nhà thì mặt biển bỗng phủ một lớp sương mỏng. Từ trong làn sương ấy, một người đàn ông mặc áo màu xanh biển bước ra. Giọng ông vang lên trầm ấm, như tiếng sóng xa xăm:
“Ta là linh hồn của biển cả. Đêm bão ấy, nhờ tấm lòng nhân hậu của ngươi mà ta được cứu. Những điều kì lạ xảy ra chỉ là sự đền đáp cho lòng tốt ấy.”
Nói xong, người đàn ông dần tan vào sương biển, để lại lão Hải Ngư đứng lặng, lòng vừa kinh ngạc vừa xúc động. Từ đó, lão càng sống tử tế hơn, sẵn sàng chia cá cho người nghèo, giúp đỡ những gia đình gặp nạn trên biển. Những phép màu dần ít đi, nhưng cuộc sống của dân làng lại ngày một ấm no, yên bình.
Câu chuyện lạ về nhà thuyền chài của lão Hải Ngư được truyền từ đời này sang đời khác. Nó không chỉ là câu chuyện về phép màu của biển, mà còn nhắc nhở con người hãy sống nhân hậu, biết yêu thương và trân trọng thiên nhiên. Bởi chỉ cần một tấm lòng thiện lương, biển cả cũng sẽ mỉm cười đáp lại.
6 giờ trước
Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.
Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.
Năm ấy, giặc n ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con", người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: "Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc." Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.
Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ "Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!", rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.
Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời