Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Truyện kiều là tập đại thành của ông gồm 3254 câu thơ lục bát, viết về kiếp đời hồng nhan bạc mệnh của người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích" nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc". Trong đoạn trích này, tác giả đã tập trung khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều qua ngoại cảnh. Đặc biệt, trong tám câu thơ cuối, tác giả đã cho ta thấy được nỗi cô đơn, buồn tủi và dự cảm về tương lai đầy sóng gió của nàng.
Bốn cặp câu lục bát đã vẽ lên khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều. Ở đây ta thấy xuất hiện hàng loạt các từ láy chỉ không gian rộng lớn "bát ngát", "thấp thoáng", "xa xa", "man mác" mở ra một không gian rộng lớn, bát ngát. Nhưng trong không gian ấy chỉ có duy nhất hình ảnh con người là thấp thoáng, mơ hồ như đang chìm vào hư không.
Trước hết là hai câu thơ:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa."
Hình ảnh "cửa bể" gợi ra không gian rộng lớn, mênh mông, "chiều hôm" gợi cảm giác chia ly. Không gian ấy bao la, rộng lớn, không một bóng người, chỉ có duy nhất một cánh buồm thấp thoáng, lướt qua rồi mất hút về phía chân trời xa xăm. Cánh buồm ấy trở thành biểu tượng cho sự cô đơn, lạc lõng, bơ vơ của Kiều giữa dòng đời vô định. Con thuyền ấy chẳng biết sẽ đưa Kiều đi đâu hay sẽ dừng chân tại bến bờ nào. Điều đó khiến Kiều cảm thấy sợ hãi, lo âu.
Đến hai câu thơ tiếp theo, không gian như càng trở nên đáng sợ hơn:
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
Hình ảnh "ngọn nước mới sa" gợi lên sự chảy xiết, mạnh mẽ, cuộn trào như cuốn phăng mọi thứ trên đường đi. Và trong dòng chảy ấy, một bông hoa nhỏ bé, yếu đuối đang bị cuốn đi, mang theo bao nỗi niềm tiếc nuối, xót xa. Bông hoa ấy chính là biểu tượng cho thân phận Kiều lúc bấy giờ. Nàng đang rơi vào trạng thái vô định, không biết cuộc đời sẽ đưa đẩy mình tới chốn nào. Những câu hỏi tu từ cứ chồng chất, xoáy sâu vào tâm can người đọc.
Hai câu thơ cuối cùng, không gian như càng trở nên dữ dội hơn:
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh."
Hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" gợi ra sự héo úa, tàn phai. Màu xanh của cỏ nội vốn là một màu xanh tươi mát, tràn đầy sức sống nhưng nay lại trở nên nhợt nhạt, u sầu. Từ láy "rầu rầu" càng tô đậm thêm vẻ ảm đạm, thê lương của cảnh vật. Dường như chính nỗi buồn của Kiều đã nhuộm màu u ám lên cảnh vật. Không gian như bị bao trùm bởi một màu xanh đơn điệu, tẻ nhạt, nhàm chán. Nó khiến Kiều cảm thấy ngột ngạt, bế tắc.
Và rồi, tiếng sóng ầm ầm bỗng vang lên dữ dội:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Âm thanh của tiếng sóng "ầm ầm" như tiếng gào thét điên cuồng của thiên nhiên, báo hiệu một cơn bão tố sắp sửa kéo đến. Nó khiến Kiều cảm thấy sợ hãi, lo lắng. Tiếng sóng ấy như tiếng lòng của Kiều, đang dâng trào những cơn sóng lòng mãnh liệt. Nàng đang vô cùng hoảng loạn, sợ hãi.
Như vậy, bằng việc sử dụng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng kết hợp với nghệ thuật đối lập, tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng của Thúy Kiều qua cảnh vật. Tám câu thơ cuối là bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Kiều. Qua đó, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải chịu đựng nhiều bất hạnh, sóng gió của cuộc đời.