Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các đoạn văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Bài thơ ĐỒNG CHÍ như một định nghĩa bằng thơ về hai chữ “Đồng chí" là bài ca về tình đồng chí của những người lính cách mạng.
Bảy câu thơ đầu lí giải cơ sở hình thành nên tình đồng chí. Hai câu đầu giới thiệu quê hương của "anh” và “tôi", những người lính xuất thân từ nông dân “anh” ở nơi “nước mặn đồng chua” là nơi vùng ven biển, đất khó làm ăn; “tôi” ở vùng đồi núi trung du "đất cày lên sỏi đá”- đất khó canh tác. Ra đi từ những vùng quê khác nhau nhưng các anh đều chung cái nghèo. Sự tương đồng về cảnh ngộ xuât thân nghèo khó là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.
Chính điều đó khiến họ từ những phương trời “xa lạ” tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở nên gắn bó. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là hình ảnh sinh động, gợi cảm về mối tình gắn bó của những con người chung một lí tưởng, sát cánh chiến đấu vì độc lập tự do của Tố quốc.
Sống trong quân ngũ, tình cảm của các anh nảy nở và ngày càng gắn bó. “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Câu thơ đầy ắp ki niệm và ấm áp tình đồng đội.
Từ sự sóng đôi của “anh” và “tôi” trong từng dòng thơ đến sự gần gũi “anh với tôi” trong một câu thơ và đến “đôi tri kỉ” - là một tình bạn keo sơn, gắn bó và cao hơn nữa là “Đồng chí!”. Từ rời rạc, riêng lẻ, dần nhập thành chung, thành một, khăng khít, khó tách rời. Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai chữ “Đồng chí” và dấu (!) tạo một nốt nhấn, nó vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi thiết tha, ấm áp, xúc động, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng đó. Đồng thời, câu thơ như một bản lề gắn kết hai đoạn thơ, làm nổi rõ một tất yếu, một kết luận: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau và mở ra ý tiếp: Đồng chí còn là như thế nào nữa?
Mười câu thơ tiếp nói về những biểu hiện cụ thể, cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội.
Những đêm rét chung chăn, tấm chăn khép lại đã mở ra biết bao tâm tình của những người đồng đội. Họ thấu hiểu và chia sẻ với nhau mọi tâm tư nỗi niềm. Mỗi người lính đã để lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê (ruộng nương, gian nhà) để ra đi chiến đấu.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.
Hai chữ “mặc kệ" nói được cái dứt khoát, mạnh mẽ, quyết ra đi, nhưng người lính vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu. Nói “gian nhà không" vừa gợi gian nhà nghèo nàn, xơ xác, vừa gợi cá cái trống trải của ngôi nhà, của lòng người ở lại khi người đàn ông ra trận. Nói “mặc kệ" mà không dửng dưng, vô tình. Các anh hiểu rõ lòng nhau và hiểu cả nỗi niềm của người thân của nhau nơi hậu phương: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.Cách nói tế nhị hợp với tâm hồn người lính nông dân vốn kín đáo trong tình cảm. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là nói người lính nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết.
Tình đồng chí đã đem đến cho các anh những tình cảm mới mẻ, vượt lên phạm vi gia đình, làng xóm, quê hương, nâng người chiến sĩ lên trong tình đồng đội, tình giai cấp, lớn hơn là tình yêu nước. Tình cảm ấy khiến họ càng xích lại gần nhau hơn trong cuộc đời người lính biết bao gian khổ.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Họ nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống. Họ cùng chịu bệnh tật, những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh thơ chân thực, xúc động, gợi tả. Để diễn tả sự gắn bó, chia sẻ giống nhau trong mọi cảnh ngộ của người lính. Tác giả xây dựng những cặp câu sóng đôi, đôi ứng nhau (từng cặp hoặc trong từng câu). Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chừ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội làm ấm người chiến sĩ, để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên buốt giá. Cảm động nhất là cử chỉ: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những bàn tay như biết nói, đã nói lên bao tình cảm ấm áp, đắm sâu, lặng lẽ mà thấm thía. Nắm lấy bàn tay nhau để ấm đôi bàn chân, để trụ vững trước mọi gian lao, thiếu thốn. “Đồng cam cộng khổ” khiến tình đồng chí thêm sâu dày để cùng đi tới chiều cao: cùng sát cánh chiến đấu.
Ba câu cuối nói lên biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí: cùng chung chiến hào. Tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian lao và đây là thử thách lớn nhất. Ba câu thơ như dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí, về người chiến sĩ. Trên cái nền hùng vĩ, khắc nghiệt của thiên nhiên: đêm - rừng hoang - sương muối, người chiên sĩ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Hình ảnh họ sát cánh bên nhau vững chãi tràn đầy khí thế lạc quan, làm mờ đi cái gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Chính ở nơi sự sống và cái chết chỉ kề nhau tích tắc này cũng là nơi thử thách và bộc lộ tình đồng chí thiêng liêng, cao đẹp và phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ. Hình ảnh họ khắc đậm lại, tượng hình lại trong chi tiết bất ngờ, độc đáo: “Đầu súng trăng treo”. Rất thực và cũng rật lãng mạn. Trong những đêm phục kích giặc giữa rừng khuya, người lính còn có thêm người bạn nữa là vầng trăng, trăng trôi trên nền trời, nhìn lên, trăng như treo trên đầu ngọn súng. Nhịp 2/2 gợi lên như nhịp lắc của một cái gì chung chiêng, lơ lửng trong sự bát ngát, chứ không phải là buộc chặt. Súng và trăng cũng thành một cặp đồng chí tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng chí kia. Bên đồng đội, tâm hồn người chiến sĩ vẫn bình thản và lãng mạn ngay cả giữa nguy hiểm, gian lao. Hình ảnh thơ gợi nhiều liên tưởng. Súng: hình ảnh của chiến tranh, khói lửa; trăng: hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hoà hợp giữa súng và trăng vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Người lính cầm súng là để bảo vệ cuộc sống hoà bình, hạnh phúc, độc lập, tự do cho Tổ quốc. Súng và trăng, thực và mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ,... đó là các mặt bổ sung cho nhau của cuộc đời người lính cách mạng, làm nên vẻ đẹp của tình đồng chí.
Đề thi vào 10 môn Văn Trà Vinh
PHẦN HÌNH HỌC - TOÁN 9 TẬP 1
Bài 1
CHƯƠNG I. MẠNG MÁY TÍNH VÀ INTERNET
Bài 14: Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân