Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các đoạn văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Dàn ý
Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vị trí, nội dung đoạn trích.
2. Thân bài
a, Tình huống gặp gỡ - Lục Vân Tiên đánh cướp:
- Chủ tớ Kiều Nguyệt Nga trên đường bị cướp chặn xe, Lục Vân Tiên tình cờ đi ngang qua, thấy vậy liền ra tay cứu giúp.
- Cảnh đánh cướp thể hiện tài năng võ thuật, sự mưu trí, khỏe khoắn của Lục Vân Tiên:
+ “Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”: câu thơ thể hiện sự gan dạ, không do dự lao tới cứu người.
+ “Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ!/Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”: hai câu thơ cho thấy bản tính quân tử, minh bạch của Lục Vân Tiên. Trước khi ra tay, chàng tuyên bố lí do sự ra tay của chàng là vì chính nghĩa, việc ra tay cũng minh bạch, không phải đánh lén.
+ Trận đánh gay cấn, “bốn phía bủa vây bịt bùng” vô cùng nguy hiểm, nhưng càng cho thấy tài năng của Lục Vân Tiên: “tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”.
⇒ Hình ảnh so sánh Lục Vân Tiên với nhân vật anh hùng Triệu Tử, tả đột hữu xung, câu thơ với giọng điệu nhanh, dứt khoát, tất cả thể hiện sức mạnh của nhân vật.
- Kết quả của trận đánh: kẻ cướp thua tan tác, bỏ cả gươm giáo, thủ lĩnh Phong Lai bị Vân Tiên tiêu diệt.
⇒ Lời thơ như tiếng reo hò trước sự thắng lợi của công lí. Hình ảnh Lục Vân Tiên qua trận đánh trở thành hình ảnh một người anh hùng thượng võ, bênh vực kẻ yếu, trừ gian diệt ác cho nhân dân
b, Cảnh Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga:
Tính cách, phẩm chất của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga thể hiện qua màn đối đáp trả ơn.
- Khi thấy tiếng than khóc trong xe ngựa, Vân Tiên hỏi chuyện, “động lòng” trước cảnh hai cô gái gặp nguy, khẳng định đã trừ hết kẻ gian.
+ Ngăn không cho hai cô gái ra ngoài: tư tưởng nam nữ thụ thụ bất thân thời phong kiến.
+ Hỏi thăm tên tuổi và lí do hai người bị nạn giữa đường.
⇒ Từ ngôn ngữ mộc mạc, giản dị thể hiện tinh thần võ tướng khi tả cảnh đánh kẻ ác, tác giả chuyển qua sử dụng ngôn ngữ trang trọng để xây dựng đoạn hội thoại. Từ đó cho thấy cả hai nhân vật đều là người có học thức, trọng tôn ti trật tự.
- Khi biết người cứu mình là một trang nam tử hán, Kiều Nguyệt Nga đã kể rõ sự tình: nàng cùng tì thiếp lên đường đến nơi cha đang làm quan, giữa đường gặp cướp may nhờ Vân Tiên cứu. Tính cách và sự giáo dục của nàng thể hiện qua những câu:
+ Làm con đâu dám cãi cha: đặt chữ hiếu lên trước tiên, không quản khó khăn vất vả của bản thân.
+ Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi: quan trọng danh tiết.
+ Muốn lạy tạ ơn cứu mạng của Vân Tiên, mong chàng đi cùng để cha con nàng báo ơn
⇒ Qua đây ta thấy một nhân vật Kiều Nguyệt Nga biết trước sau, hiếu thuận, lễ tiết, là một tiểu thư khuê các có học thức, nghĩa tình.
- Khi nhận được ngỏ ý tạ ơn của Nguyệt Nga, Vân Tiên liền từ chối: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn/ Nhớ câu kiến ngãi bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
+ Tô đậm thêm phẩm chất con người trượng nghĩa.
+ Thể hiện một phương châm sống của đấng nam nhi thời phong kiến: thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là anh hùng
⇒ Tác giả thông qua nhân vật Lục Vân Tiên nhắc lại những đạo lí làm người cần có ở một trang nam nhi, thông qua Kiều Nguyệt Nga ca ngợi vẻ đẹp chính chuyên của người phụ nữ Việt Nam.
c, Nghệ thuật đoạn trích:
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật sử dụng nhiều đối thoại, hành động, ít miêu tả ngoại hình, nội tâm, bởi tác giả sáng tác trong hoàn cảnh bị mù lòa, ông đọc để người khác ghi chép lại nên truyện mang tính chất truyền khẩu. Qua lời nói và hành động, nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất.
- Ngôn ngữ thơ mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày, đậm tính Nam Bộ. Thể thơ lục bát dễ nhớ.
- Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, điển tích, triết luận.
3. Kết bài
- Đoạn truyện Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga khắc họa rõ nét phẩm chất tốt đẹp của một Lục Vân Tiên dũng cảm, xả thân cứu người, trọng nghĩa, khinh tài.
- Lời Lục Vân Tiên nói với Kiều Nguyệt Nga phản ánh rõ quan niệm về lẽ sống, về lí tưởng của con người anh hùng;
“Nhớ cầu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế áy cũng phi anh hùng”.
Bài mẫu
Bài mẫu
Bài tham khảo số 1
Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của miền Nam trong thế kỉ XIX. Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là linh hồn của tác phẩm. Là hai nhân vật lý tưởng, đẹp đẽ: chàng trai văn võ song toàn “Văn đã khởi phụng đằng giao - Võ thêm ba lược sáu thao ai hì", người thiếu nữ thì “vóc ngọc mình vàng", đoan trang, giàu tình cảm và vô cùng chung thủy.
Lục Vân Tiên cứu Kiền Nguyệt Nga là một đoạn thơ hào hùng, đầy kịch tính và rất hấp dẫn trong truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Chuyện đánh cướp, chuyện trai tài gái sắc gặp gỡ, nói với nhau những cậu chí tình chí nghĩa, làm người đọc cảm động và không bao giờ quên.
Sau khi bọn lâu la "bốn phía vỡ tan", tướng cướp Phong Lai bị Vân Tiên tiêu diệt, Kiều Nguyệt Nga được cứu thoát. Nàng vô cùng cảm động, muốn được đền đáp công ơn người anh hùng:
Gẫm câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Nhưng Lục Vân Tiên đã cười và khước từ một cách cao thượng:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Câu nói ấy biểu hiện một cách ứng xử tuyệt đẹp của Lục Vân Tiên. Đối với bọn bất lương, chàng nghiêm khắc lên án "chớ quen làm thói hồ đồ hại dân" và quyết đánh lan “lũ kiến chòm ong", trừng phạt lên tướng cướp Phong Lai, làm cho hắn "thác rày thân vong”. Đối với nhân dân, chàng "xin ra sức anh hào, Cứungười cho khỏi lao đao buổi này”. Đó là hai thái độ yêu, ghét rõ ràng, dứt khoát.
Còn đối với Kiền Nguyệt Nga, chàng đã xử sự như thế nào? Tinh thần dũng cảm đánh cướp của Lục Vân Tiên đã làm cho nàng vô cùng khâm phục và biết ơn. Nhờ chàng cứu giúp mà nàng thoát khỏi bàn tay bọn hung đồ, bảo toàn được phẩm tiết. Nàng đã làm đúng đạo lý muốn "báo đức thù công" người quân tử. Nếu Vân Tiên nhận sự đền ơn của nàng, thì đó cũng là một chuyện thường tình, chính đáng. Nhưng, Vân Tiên đã "cười". khảng khái khước từ sự trả ơn của người mắc nạn, vì chàng đã hành động trong tư thế anh hùng, lấy việc cứu nhân độ thế làm niềm vui hạnh phúc. Chàng đã cười, đã chối từ sự trả ơn, nếu làm trái lại, đâu còn là anh hùng nữa? Câu nói của Lục Vân Tiên cho ta thấy chàng là một con người vị nghĩa, có tâm hồn rất đẹp, cao thượng, trọng nghĩa khinh tài, thấy việc ngang trái, quyết ra tay hành động, không từ nan trốn tránh:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Qua câu nói của Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đề cao tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp. Người giàu lòng nhân nghĩa có tình nhân ái bao la, biết căm thù cái ác, ghét bất công. Người nhân nghĩa vì hạnh phúc của nhân dân mà hành động dũng cảm bênh vực, che chở kẻ lầm than. Họ không màng danh lợi, vô tư, khảng khái, trọng nghĩa khinh tài, hào hiệp, vị tha...
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Câu nói ấy thể hiện một lẽ sống đẹp, và nhà thơ đã ca ngợi một quan niệm anh hùng rất cao đẹp và tiến bộ. Lục Vân Tiên đã hành động một cách quyết liệt, vì một chân lý, như người xưa đã nói: “Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ'' (giữa đường thấy việc bất bình, rút gươm ra giúp sức). Người anh hùng lấy cái nghĩa làm trọng, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng dấn thân vào rừng gươm giáo để cứu người, cứu đời. Câu nói của Lục Vân Tiên phản ánh ước mơ khát vọng cháy bỏng của nhà thơ yêu nước miền Nam. Xã hội Việt Nam trong thế kỉ XIX là một xã hội loạn lạc, vô cùng đen tối: vua quan tham lam tàn bạo, cướp bóc nổi lên như ong, đạo đức suy vi, nhan nhản bọn bạc ác tinh ma, lừa thầy phản bạn như cha con Võ Thái Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm... Nhà thơ mong chờ, hi vọng xuất hiện nhiều con người tài, đức như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực, Hớn Minh, những con người nghĩa khí như ông Quán, ông Tiều, lão bà, ông Ngư, tiểu đồng, v.v...
Người đọc nhớ mãi câu nói của ông Ngư với Lục Vân Tiên:
Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn ?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Truyện Lục Vân Tiên ra đời cách chúng ta trên 150 năm. Nhiều nhân vật trong truyện thơ có một sức sống lâu bền kì lạ, vô cùng hấp dẫn. Hành động anh hùng vị nghĩa của nhân vật Vân Tiên vẫn có nhiều ý nghĩa tích cực đối với nhân dân ta. Tinh thần hào hiệp, nghĩa khí chống phong kiến và đế quốc của nhân dân Nam Bộ là điều mà ta cảm nhận được qua văn thơ Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho nhân vật Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên nhiều ưu ái đặc biệt, vì đó là hình ảnh lý tưởng đẹp đẽ của nhà thơ. Bởi thế, Truyện Lục Vân Tiên có tính nhân dân sâu sắc.
Xem thêm các bài tham khảo khác tại đây:
Bài tham khảo số 2
Bài 17: Nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc
Câu hỏi tự luyện Tiếng Anh lớp 9 cũ
Các thể loại văn tham khảo lớp 9
Câu hỏi tự luyện Sử 9
Đề thi giữa kì 2