Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các đoạn văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn đầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Lại bài viếng Vũ Thị là bài thơ Nôm độc đáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập.
Độc đáo vì nó là bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra hội Tao Đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.
Ở đây, tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị, giàu cảm xúc.
Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ vợ chàng Trương, một người phụ oan khổ:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị Thiết mà Nguyễn Dữ đã kể trong Chuyện người con gái Nam Xương. Hình ảnh khói hương tỏa nghi ngút trong miếu thờ đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiêng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.
Nhà vua như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thuỷ chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi mình cho “cung nước". Giá mà Trương Sinh "đừng nghe trẻ" thì "'cung nước chi cho lụy đến nàng”. Các chữ: " đừng nghe", “lụy đến" chứa đựng biết bao niềm cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đển mọi bi kịch đau xót trong cuộc đời:
Bóng đèn đầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng
Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng thuỷ chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đấ soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn sáng trong như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ “chẳng lọ” nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh
Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chằng lọ mấy đàn tràng.
Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ "bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của vị hoàng đế mà như tiếng nói cùa một thường dân nơi thôn dã sau lũy tre, bờ dâu ruộng lúa:
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Các chữ “khá trách" và "khéo phũ phàng” rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng đáng trách đã gây ra cái chết thảm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.
Bài thơ “Lại bài viếng Vũ Thị” là một nén hương của Lê Thánh Tông trên đường kinh lí đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.
Trích:
ĐỊA LÍ DÂN CƯ
Đề kiểm tra 15 phút - Chương 6 - Sinh 9
TÀI LIỆU DẠY - HỌC HÓA 9 TẬP 2
PHẦN HÌNH HỌC - SBT TOÁN 9 TẬP 2
CHƯƠNG III. ADN VÀ GEN