Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các đoạn văn nghị luận về tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Bài làm
Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương đối với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình, khi nỗi oan tình được giải tỏa thì cũng chẳng bao giờ trở lại nhân gian được nữa.
1. Vũ Nương là một người con gái “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh. Khi đã trở thành vợ Trương Sinh, “nàng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa".
Thời loạn lạc chiến tranh, ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng chẳng màng “đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ" mà chỉ mong chồng trở về “mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi".
Năm tháng trôi qua, Vũ Nương nhớ thương chồng không kể xiết: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Đó là tâm trạng người chinh phụ: “Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong!" (Chinh phụ ngâm)
Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo. Một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Mẹ chồng già yếu, buồn nhớ con đi lính mãi chưa về, sinh ốm đau thì nàng “hết sức thuốc thang" và “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Lúc mẹ chồng qua đời, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình".
2. Bi kịch gia đình
Giặc tan, Trương Sinh trở về, niềm vui sum họp gia đình, hạnh phúc vợ chồng, đáng lẽ mỉm cười với Vũ Nương. Nhưng nỗi bất hạnh đã giáng xuống đầu nàng. Chồng hay ghen, chỉ vì chuyện chiếc bóng, chỉ vì chuyện có người đàn ông "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”, mà nàng bị chồng nghi là “vợ hư” rồi chửi mắng, đánh đập đuổi đi. Nàng phân trần nhưng chồng cũng không tin. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì. Trước bi kịch "hình rơi trâm gẫy, sen rũ trong an, liễu tàn trước gió", Vũ Nương chỉ còn một cách nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử.
Lời nguyền của nàng với trời và thần sông đã làm cho người đời xót xa đối với một người con gái “bạc mệnh duyên phận hẩm hiu". Vũ Nương không phải “làm mồi cho cá tôm", “làm cơm cho diều quạ", không bị mọi người phỉ nhổ mà nàng đã được các nàng tiên trong cung nước thương tình vô tội, rẽ một đường nước cho nàng thoát chết. Và cũng chẳng bao lâu sau đó, Trương Sinh biết vỢ mình chết oan chỉ vì chuyện “chiếc bóng": “Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi!''.
3. Tình tiết Vũ Nương gặp Phan Lang trong bữa tiệc của Linh Phi dưới cung nước, chuyện Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại quê hương, chuyện Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng về và dặn chồng lập đàn tràng trên bến Hoàng Giang, chuyện Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đứng đầy sông, lúc ẩn lúc hiện là những tình tiết hoang đường nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ ngày xưa “bạc mệnh duyên phận hẩm hiu...”, và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến và xã hội phong kiến thối nát, vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” làm cho giá trị nhân đạo càng thêm sâu"sắc. Nỗi oan tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa, nhưng âm dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được quyền làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi!
Tóm lại, Vũ Nương là một người phụ nữ bạc mệnh, đau khổ trong xã hội phong kiến thời loạn lạc. Tuy mang yếu tố hoang đường, thần kỳ nhưng Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc. Câu văn cổ biền ngẫu, lối kể nhẹ nhàng cảm động, đầy ám ảnh. Cái tâm của Nguyễn Dữ với lòng đau xót, cảm thông như trải rộng và thấm sâu vào câu chuyện thương tâm này.
Bài 3. Phân bố dân cư và các loại hình quần cư
QUYỂN 3. TRỒNG CÂY ĂN QUẢ
Bài 16
Chương III. QUANG HỌC
Đề thi vào 10 môn Văn Thanh Hóa