Đề bài
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Lời giải chi tiết
Thật ra số phận của Tây Tiến cũng khá truân chuyên. Đã có lúc Tây Tiến được trích dẫn như một dẫn chứng để phê phán cái xu hướng gọi là “tiểu tư sản” trong thơ kháng chiến, một “đối chứng" để khẳng định những gì nên có trong thơ mới. Nhưng rồi Tây Tiến cuối cùng được nhớ lại như một kỷ niệm đẹp của kháng chiến, một tiếng thơ bi tráng của một nền thơ.
Thành công đầu tiên của Quang Dũng là đã chọn cho bài thơ một thể thơ rất hợp: thể bảy chữ, nhưng không phải bảy chữ Đường luật mà là bảy chữ thể hành; một đoạn thơ ăn theo một vần bằng, cứ một câu vần bằng lại một câu vần trắc. Điệu thơ ấy, lại cộng với cách dùng từ hơi cổ kính một chút của Quang Dũng, khiến cho bài thơ ngay khi vừa đọc lên, đã có một không khí vừa man mác bâng khuâng vừa lãng mạn hào hùng. Nếu Quang Dũng sử dụng một thể thơ khác, kể cả thất ngôn tứ tuyệt trường thiên như ở Mắt người Sơn Tây, điệu thơ sẽ khác đi, không khí bài thơ cũng sẽ khác đi, sẽ buồn hơn, và sẽ không còn là Tây Tiến nữa. Nhưng ở đây không phải là vấn đề lựa chọn, cảm hứng nghệ thuật của Quang Dũng, nhu cầu bên trong của nhà thơ, đã tìm đúng cái dạng hình phải có cho sự thổ lộ của mình, để Tây Tiến ra đời và sống cuộc đời đầy thăng trầm nhưng mãnh liệt của nó.
Hình như có lúc nhan đề bài thơ gồm những ba chữ kia: Nhớ Tây Tiến. Cái nhan đề ấy hơi thừa nhưng lại rõ nghĩa. Tây Tiến là một cảm hứng bắt nguồn từ kỷ niệm, kỷ niệm về một đoạn đời chiến đấu, về một miền đất, kỷ niệm về những người đồng đội, cả những kỷ niệm khó quên về chính mình. Trong đời có những lúc nào đó, kỷ niệm bỗng sống dậy với những đường nét và sắc màu nóng bỏng để gợi lên những cảm xúc và hoài niệm vô tận. Kỷ niệm về Tây Tiến, về cuộc hành quân tiến về tây đánh giặc bên kia biên giới Việt - Lào, đã bắt đầu như thế:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nhớ chơi vơi! Hai tiếng “chơi vơi” dùng ở đây thì thực là đắc địa. Nhớ chơi vơi là nỗi nhớ không có hình, không có lượng, hình như nhẹ tênh tênh mà nặng vô cùng, bởi không đo nó được, không cân nó được, chỉ biết lửng lơ, đầy ấp, mênh mông, nó ám ảnh tâm trí mình, nó da diết thương nhớ vô cùng. "Nhớ chơi vơi" ít ai nói như thế; hình như trong bài ca dao cũng có và chỉ có một lần nỗi nhớ như thế xuất hiện:
Ra về nhớ bạn chơi vơi...
Trong bài thơ Quang Dũng, hai liếng chơi vơi này lại ăn vần với tiếng “ơi” ở câu trên, nên càng bộc lộ hết sắc thái ngữ nghĩa và sức khơi gợi của chúng, càng trở nên như một tiếng vang tức thời bật lên từ cõi nhớ: nhớ Tây Tiến nhớ ngay về rừng núi.
Ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến là về rừng núi. Cả một đoạn thơ đầu gồm 14 câu đều dành cho kỷ niệm về rừng núi một vùng bát ngát miền Tây, một vùng biên giới Việt Lào. Mà rừng núi mới dữ dội, khắc nghiệt làm sao: núi cao, dốc thẳm, sương dày, mưa mịt mù trời đất, thác gầm, cọp dữ,... Miền Tây, ấy là nơi ngự trị của vẻ thâm u, hoang dã, những thử thách gớm ghê đặt ra trước con người, thiên nhiên ở đây luôn là một mồi đe dọa, một sức mạnh sẵn sàng vồ lấy con người, nuốt chửng con người. Ta chớ quên rằng, vào cái mùa xuân Tây Tiến ấy, những người lính Tây Tiến như Quang Dũng chỉ vừa mới ra đi từ một mái trường hoặc một góc phố nào đó của Hà Nội - Thăng Long, nơi có Hồ Gươm, Tháp Búp, Tháp Nghiên, có liễu Hồ Tây, có ba mươi sáu phố phường, cả những cuộc chiến đấu trên chiến lũy ác liệt mà vẩn pha nét hào hoa... Ấn tượng trước miền Tây vì thế càng ghê gớm:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngủn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...
Từng chi tiết: sương dốc, mây, mưa... đều được Quang Dũng đưa về với ấn tượng mạnh nhất của nó. Sương thì dày đến “lấp” cả đoàn quân, dốc thì đã 'khúc khuỷu" lại "thăm thẳm ”, đã nghìn thước lên cao lại “nghìn thước xuống", 'cồn mây’í thì heo hút và cao đến “súng ngửi trời", mưa đến mức những ngôi nhà như bồng bềnh trên biển khơi... Những từ địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch xa lạ càng làm tăng ấn tượng xa ngái, hoang sơ lên mệt bậc nữa.
Đọc mấy câu thơ sau đây:
Dốc lên khúc khuỷu đốc thủm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Tự nhiên thấy rợn cả người, cứ như đọc mấy câu thơ trong "Thục dạo nan” của Lý Bạch:
Thục dạo chi nan, nan ư thướng thanh niên!
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh.)
hoặc như khi đọc Chinh phụ ngâm mà đến câu:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao...
Tây Tiến là một cuộc hành quân cực kỳ gian khổ, gian khổ đến độ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Gian khổ tưởng chừng như đã vượt qua giới hạn chịu đựng của con người. Những người gục xuống trên đường đi, gục xuống khi chân còn đi, chỉ khi “không bước nữa", không thể bước lên nữa mới “gục lên súng mũ”, và thế là “bỏ quên đời” chứ không phải nằm xuống, ngã xuống. Cái ý thơ này dẫu buồn mà vẫn không bi đát, bởi vì ở đây con người vẫn vượt lên mình, dẫu không áp đảo được khó khăn nhưng không khuất phục, và cho đến khi chết, vẫn chết trong cuộc hành trình. Thật là một hình ảnh vừa bi vừa hùng. Nó đúng với cái không khí thời đại của đất nước đang bước vào một cuộc chiến đấu mà mỗi người chỉ có hai tay không và một tấm lòng, phải đương đầu với súng đạn bom pháo của kẻ thù và chiến đấu cho một lời thề thiêng liêng: "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh". Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày về, giống như lời một bài hát rất thịnh hành ngày đó:
Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Là có sá chi đâu ngày trở về...
Đừng đưa những tiêu chuẩn tinh thần lạc quan cách mạng hay gì gì đó của những những năm sau này mà đo đạc hay phê phán tinh thần của lớp người ấy. Bởi vì ở họ, ở mỗi người chiến sĩ lên đường ngày ấy, đều có một hình ảnh và một lâm trạng của Kinh Kha sang Tần:
Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn
(Gió hiu hắt chờ sông Dịch lạnh tanh
Tráng sĩ một đi chừ, chẳng trở về)
Ôi cái lãng mạn đẹp đẽ của một thời! Đừng gọi đó là anh hùng cá nhân. Anh hùng thì có nhưng cá nhân thì không, bởi cái anh hùng ấy vồ tư lắm. Trong đoạn thơ đầu này, nếu Quang Dũng có nói quá lên về cái ghê gớm của núi rừng (mà sự thật là không quá) thì cũng chỉ là để nói lên cái hào hùng cùa con người chứ không phải để hạ thấp nó.
Rồi giữa những kỷ niệm khổ và đau thế, đoạn thơ bỗng khép lại bằng một kỷ niộm thật ấm áp, như một tiêng hát vui bỗng vút lên. Cái khổ cái buồn thật đáng nhớ, vì thế cái ngọt bùi giữa bao nhiêu buồn khổ ấy lại càng đáng ghi nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Điều vui gợi nhớ điều vui, Quang Dũng dành cả phần thứ hai gồm tám câu thơ cho những kỷ niệm về tình người xứ bạn:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Hình ảnh một cuộc liên hoan văn nghệ đã thành truyền thống trong cuộc kháng chiến chống Pháp được nhắc đến với vài ba nét tiêu biểu: đuốc, hoa, điệu múa, tiếng khèn những chi tiết có màu sắc tả thực mà vẫn có chút gì đó rất mộng, rất ảo. Hai tiếng “kìa em" vừa ngỡ ngàng vừa trìu mến.
Một nét chấm phá về nhân dân xứ bạn lại được định hình rất rõ trên tấm ảnh thời gian:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Quang Dũng đã dành phần cuối của bài thư cho hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, hình ảnh mà tác giả muốn ca ngợi một cách khác thường là sau khi đã nói đến những nét hoặc khác thường hoặc độc đáo của cuộc Tây Tiến gian khổ hào hùng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Nếu cần sự độc đáo thì mấy từ “không mọc tóc" đã đạt đến chỗ lột cùng của độc đáo, nhưng như thế thì có chân thật không? Hình ảnh anh bộ đội có trở nên quái đản không? Không! Bởi vì, đây là hình ảnh anh “vệ trọc” nổi liếng một thời, hình ảnh như một dấu ấn không thể phai của những chàng trai từ thành phố, từ dưới các mái trường “ xếp bút nghiêng" hước vào chiến đâu, với một lòng yêu nước hoàn toàn vô tư và một chút lãng mạn của một khách chính phu và một chiến sĩ“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao". Hình ảnh anh bộ đội trong những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến ấy chưa có thể hoàn toàn thoái khỏi hình ảnh người anh hùng mà văn thơ lãng mạn đã tạo nên, cả từ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn hay “Chí anh hùng” của Nguyễn Công Trứ. Mà đã có “đoàn binh không mọc tóc" thì tất nhiên cũng có được “quần xanh màu lá dữ oai hùm". Hơn nữa cái vẻ “dữ oai hùm ” ấy cũng hoàn toàn tương xứng một ý thơ của đoạn đầu:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến đã được dựng lên như thế thì tất phải có hai câu thơ này:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Mấy câu thơ sau thì thật buồn:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đì chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đó là hình ảnh tất nhiên của một cuộc chiến tranh. Câu thơ đầu đọng lại như một hức tranh buồn thảm bởi tất cả bảy tiếng - "rải rác - biên cương - mồ viễn xứ” đều hàm chứa một lương thông tin lớn. Cậu thơ này nếu đứng một mình thì ấn tượng bi thảm thật đến vô cùng. Nhưng từ cái bi thảm ấy, những câu thơ sau lại nâng nó lên thành bi tráng chứ không còn bi thảm nũa. Nó tráng bởi Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người đã chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Cách nhìn cách phát biểu của nhà thơ cũng xuất phát từ cái tráng ấy.
Riêng chi tiết thực này: người tử sĩ được mai táng trong chính quần áo của mình (không có cả chiếu), Quang Dũng đã nói khác đi. Nhà thơ không nói áo mà nói “áo bào”, và khi nói “áo bào” thì la không còn nghĩ đến , “áo” nữa mà nghĩ đến một cái gì đó đẹp và hùng tráng hơn rất nhiều. Nói “áo bào" không phải là thi vị hóa hay "tiểu tư sản", “mộng rớt” như có người đã nói. Vả lại "áo bào” chứ không phải “chiến bào”, chiến bào thì nghe cổ quá, không phù hợp, còn “áo bào” thì lại mới, rất đúng. (Một sự kết hợp ngẫu nhiên giữa áo và bào, coi như một đóng góp về từ vựng của Quang Dũng)- Người tráng sĩ thời phong kiến coi “da ngựa bọc thây" là một niềm vinh quang thì với người lính bảo vệ đất nước ngày nay, “áo bào thay chiếu anh về đất” là một hình ánh đầy sức mạnh ngợi ca. vả lại, Quang Dũng còn rất tinh lế khi dùng từ "về": “anh về đất” không từ nào thay thế cho từ này được. “Về đất" không chỉ là được chôn xuống đất mà còn là hành động “tựu nghĩa” của người anh hùng đã hoàn thành nhiệm vụ, còn là niềm trân trọng yêu thương, của đất nước, của đồng đội. Bi tráng nhất là câu thơ cuối đoạn này:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Buồn đấy nhưng sao mà hùng tráng quá! Quang Dũng đã kết thúc Tây Tiến bằng một khổ thơ tứ tuyệt:
Tây Tiên người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
"Không hẹn ước" rồi lại “thăm thầm một chia phôi”, Quang Dũng khẳng định lái ý niệm "nhất khứ bất phục hoàn" trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Đã nói nhiều điều về Tùy Tiến, đã nhắc lại nhiều kỷ niệm về Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại iu sắc nhất, bền vững nhất về Tây Tiến là cái tinh thần ấy. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn, nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.
“Tây Tiến mùa xuân ấy” đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lich sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn cái thuở gian khó và thiếu thốn đến giường ấy nhưng cũng không lãng mạn và hào hung đến nhường ấy. Không có cái thuở ấy thì sẽ không có bài như Tây Tiến và tất nhiên không có cái hồn thơ, cái tài thơ của Quang Dũng thì cũng sẽ không có Tây Tiến.
PHẦN HAI. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 2000
Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên
Chương 1. Este - Lipid
Bài 43. Các vùng kinh tế trọng điểm
Bài 15. Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai