Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Truyện Rừng xà nu của ông viết vào năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc “đồng khởi" của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, vụ, rựa ... quật khởi đứng lên đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mỹ để giải phóng buôn làng và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lí cách mạng ngời chói: “Khi giặc đă cầm súng thì nhân dân phải cầm giáo!”.
Ngoài những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng, anh Quyết... thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc họa và ca ngợi như một dũng sĩ oai hùng.
Ngày ấy, cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, không đêm nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao vây, dân làng bị kèm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng! Cùng chung số phận, chung chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc. Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào sáng sớm và xế chiều, hoặc lúc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Tang tóc bao trùm Rừng xà nu. Hàng vạn cây “không cây nào không bị thương”. Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, "cây xà nu đổ ào ào như một trận bão”nhựa cậy đọng lại, tụ lại “bầm lại đen và đặc quệt lại thành từng cục máu lớn”. Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con người. Biết bao cây con trúng đạn giặc, vết thương "cứ loét mãi ra" sau năm, mười hôm thì cây chết!
Gần hai mươi lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa xà nu... Mồi lần xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kỳ lạ, tất cả đều mang ý nghĩa “tượng trưng cho khí phách anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất!”
Người Strá đã hiện ngang trong lửa đạn, người trước ngã, người sau tiến lên. Rừng xà nu cũng vậy, cạnh cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, sinh sôi nảy nở “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Nếu như cây Kơ nia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và lòng người, thủy chung tình nghĩa, rễ cây “uống nước nguồn miền Bắc" nên có một sức sống tiềm tàng, thì cây xà nu là một loại cây “ham ánh sáng mặt trời", hương cây nhựa cây "bay ra thơm mỡ màng”. Ba lần Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kỳ vĩ ca ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thì ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất “ nhọn hoắt như những mũi lê", lúc thì rừng xà nu “ưỡn tấm lưng trần của mình ra che chở cho làng”. Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.
Có lúc Rừng xà nu được miêu tả dưới cặp mắt của Tnú trong hai thời điểm chiều và sáng, lúc anh về thăm làng và lúc anh lại ra đi. Sau ba năm trời anh đi "lực lượng”, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù, anh về thăm quê, thăm lũ làng, gặp lại rừng xà nu như gặp lại người bạn chiến đấu, anh bồi hồi tự hào và say mê ngắm nhìn: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Và buổi sáng anh lên đường, cùng cụ Mết và Dít còn có rừng xà nu trùng điệp tiễn anh với bao trìu mến và lưu luyến. Anh đã mang theo hình bóng quê hương để ra đi với một sức mạnh mới.
Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận nhân dân, về người người lớp lớp, về sự hy sinh và đóng góp xương máu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến. Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mtl đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức. “Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc tên. Đố nó giết hết rừng xà nu này".
Nét đặc sắc của truyện ngắn Rừng xà nu là nghệ thuật tả cảnh, tả người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường hùng tráng mà còn là biểu tượng cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dũng sĩ trong sử thi “Bài ca Đăm Săn"'. Là một già làng sáu mươi tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng, vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xà nu lớn”.
Nói đến hình tượng cây xà nu không thể không nói tới ngọn lửa xà nu. Tác giả đã tạo nên ba nét vẽ về ngọn lửa xà nu, gợi ra một không khí huyền thoại thiêng liêng. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư “tuyệt mệnh" của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trứơc lúc anh hy sinh. Lần thứ hai, hình ảnh ngọn lửa xà nu rực cháy trên mười ngón táy Tnú, đó là ngọn lửa uất hận, căm thù “máu kêu trả máu, đầu van trả dần” (Tố Hữu). Lần thứ ba, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh giáo mác, với tiếng hô: “Chém hết!" của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên giặc, trong đó có thằng Dục ác ôn, nằm sóng soài trên vũng máu trong nhà ưng. Cây xà nu đã chia ngọt sẻ bùi với đồng bào Xô-man trong những năm dài đánh Mỹ và lũ tay sai bán nước!
Nếu như bài thơ Thu Bồn lấy cánh chim Chơ rao, một nhà thơ khuyết danh đã lấy cây Kii nia làm hiểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi của nú rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành công khắc họa vẻ đẹp tráng lệ của rừng xù nu để nói lên khí phách anh hùng của dân làng Xô-man, của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam. Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc thần kỳ, không khí thiêng liêng, phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng “Rừng xà nu” là vậy.
Truyện Rừng xà nu là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh, cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng thần kỳ. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kỳ lịch sử vô cùng đau thương và oanh liệt của dân tộc.
Bài 16. Đặc điểm dân số và phân bố dân cư ở nước ta
Review 4
CHƯƠNG 4. ỨNG DỤNG DI TRUYỀN HỌC
Unit 2: Cultural Diversity - Tính đa dạng văn hóa
Chương 4. Ứng dụng di truyền học