Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, của tâm hồn người nghệ sĩ. Từ xa xưa, ta bắt gặp hình ảnh đất nước trong những cánh cò trắng trên cánh đồng làng vào những chiều quê yên ả. Rồi ta bắt gặp đất nước "lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa", trong thơ Huy Cận, một đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa", đất nước của những mùa thu xưa và nay trong thơ Nguyễn Đình Thi. Và khi đọc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm ta lại bắt gặp hình ảnh đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại ở toàn bộ chương Đất nước của bản trường ca này.
Hình ảnh “đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình, chính luận. Đậm đà cảm xúc mà cũng giàu chất triết lí sâu xa, vừa đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về đất nước vừa giúp mỗi người yêu hơn, thương hơn đất nước mình.
Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không là của riêng ai mà là của toàn thể nhân dân. Hàng triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ bao mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước.
Có biết bao người con gái, con trai,
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết,
Giản dị và bình tâm,
Không ai nhớ mặt đặt tên,
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dân ta đã chiến đấu, lao động, làm nên bộ mặt lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc, những mối quan hệ gia đình, tổ tiên, quan hệ với thiên nhiên, lịch sử.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Đất Nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó mật thiết với tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi ta hò hẹn,
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:
Trong anh và em hôm nay.
Đều có một phần Đất Nước,
Khi hai đứa cầm tay,
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.
Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong Kiến ngày xưa - đất nước là của nhà vua.
Nam quốc sơn hà nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
(Lí Thường Kiệt)
Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm khác với quan niệm của các nhà yêu nước ở đầu thế kỉ XX - đất nước là của những bậc anh hùng làm nên lịch sử:
Nợ thuở trước đánh Tàu mấy lớp,
Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang.
Sông Đằng lớp sóng Trần Vương,
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.
Quang Trung để từ khi độc lập,
Khí anh hùng đầy lấp giang sơn.
(Phan Bội Châu)
Về hình thức biểu hiện đất nước, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng cuốc kêu tượng trưng cho lòng nhớ thương nước nhà:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
(Bà Huyện Thanh Quan)
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
(Nguyễn Khuyến)
Chịu ảnh hường của văn học phương Tây vào những năm 20 của thế kỉ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh bức dư đồ để tượng trưng cho đất nước:
Nọ bức dư đồ thư đứng coi,
Sông sông, núi núi khéo bia cười
Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu viết Ngọn quốc kì ca ngợi đất nước:
Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng!
Những ngực nén hít thở "Ngày độc lập"!
Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, tục ngữ, truyền thuyết muôn màu, muôn vẻ trải dài trong không gian, xuyên suốt cả thời gian, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những liên tưởng kì thú để tượng trưng cho đất nước. Trước hết, đất nước đã có từ lâu đời, qua Sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Qua những mĩ tục thể hiện lối sống giàu tình nặng nghĩa
Tóc mẹ thì bới sau đầu,
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Qua đời sống lao động thật vất vả để lo cái ở, để lo cái ăn:
Cái kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.
Đất nước được coi là phần hay nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Nó tạo nên những tình cảm tha thiết sâu lắng, những ngân rung trong lòng người đọc. Bài thơ còn tạo nên một tượng đài về Tổ quốc Việt Nam bằng thơ, tượng đài ấy vĩnh hằng qua thời gian, năm tháng và trong lòng mỗi người dân Việt Nam yêu đất nước mình.
PHẦN 1: LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 2000
Bài 6-7. Đất nước nhiều đồi núi
Chương 2. Tính quy luật của hiện tượng di truyền
Tải 5 đề kiểm tra 45 phút (1 tiết ) – Chương 7 – Hóa học 12
Đề kiểm tra 15 phút học kì 2