Anh (chị) hãy phân tích truyện ngắn Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của phuocthd
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

16/03/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Nhắc đến Xuân Diệu, nhiều người thường chỉ nhô đến tài thơ của ông. Thực ra, đây là một cây bút đa tài. Bên cạnh một Xuân Diệu nhà thơ còn có một Xuân Diệu nhà vãn với nhiều truyện ngắn có thể sánh ngang vôi những truyện ngắn có giá trị đương thời. Trong số các truyện ngắn của Xuân Diệu, không thể không nhắc tới thiên truyện Tỏa nhị Kiều.
Tỏa nhị Kiều là truyện ngắn rút từ tập truyện ngắn và bút ký Phấn thông vàng xuất bản năm 1939 của Xuân Diệu. Ba chữ "tỏa nhị Kiều" là muộn ở một câu thơ của Đỗ Mục đời nhà Đường (Trung Quốc):
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị kiều.
Nghĩa là: Ngọn gió' đông nếu không giúp Chu Du (phóng hỏa phá trận xích Bích của Tào Tháo), thì cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước (tên một tòa lâu đài do Tào Tháo
dựng lên với ý định nếu chiếm được đất Giang Nam (Đông Ngô), nơi Chu Du làm chủ tướng, sẽ bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều có sắc đẹp nổi tiếng là vợ Tôn Sách và Chu Du đem về ở đó) sẽ là nơi giam hai nàng Kiều. Và đó còn là ý thơ mà sau này Nguyễn Du đã đưa vào tác phẩm Truyện, Kiều:
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
Tuy vậy, truyện Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu lại không phải là sự minh họa cho những câu thơ ấy. ở đấy, người đọc dễ dàng nhận ra không có gì giống với đài Đồng Tước, cũng chẳng có ai tuổi xuân bị giam hãm. Trong tác phẩm, tuy có hình ảnh của hai cô gái Quỳnh và Giao, nhưng họ không có gì giống với những nàng Kiểu của nhà thơ Đỗ Mục hay Nguyễn Du. vì thế mà ba chữ "tỏa nhị Kiều" Xuân Diệu đặt làm tựa đề cho tác phẩm có bao hàm một ý trào lộng, mỉa mai. Nhan đề đó dường như đã báo trước, đã định sẵn cái giọng điệu chủ đạo của thiên truyện này.
Trước hết, Xuân Diệu hướng ngòi bút miêu tả của mình vào hai nhân vật chính của tác phẩm: Hai cô gái được gọi là "nhị Kiều" kia không có một nét đẹp nào của hai nàng Kiều của Nguyễn Du. Tác giả cũng không tả họ là những người xấu. Điêu ông đặc biệt nhấn mạnh là họ không đẹp, nhưng cũng không xấu; không vui, nhưng cũng không buồn. Với hai cô gái này, cái gì cũng lỡ cỡ, do dang, không có một bản sắc rõ rệt và thật khó có thể gọi tên. "Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng tôi cũng không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý". Có thể nói, Xuân Diệu đã rất tài tình khi tìm ra nhiều cách khác nhau để thể hiện một trạng thái vốn rất khó thể hiện là sự dở dang, lỡ cỡ. Tác giả đã tung ra cả một vốn liếng từ ngữ phong phú để thể hiện thành công trạng thái đơn điệu và tẻ nhạt. Cách nói của Xuân Diệu khiến người đọc luôn thấy thú vị bởi những hình ảnh sống động và những so sánh bất ngờ. Chẳng hạn, tác giả viết: "Họ ngây ngây thơ thơ (chứ không được là ngây thơ), họ lặng lẽ và ngơ ngác; ấy là hai hạt cơm", Mà "hột cơm" thì chẳng có gì khiến người ta cố ấn tượng gì đặc biệt.
Và cứ thế, Xuân Diệu để cho hai cô sống trong một thế giới mà tất cả đều bằng lặng, nhạt nhòa, không sắc thái, không biến động "cứ buồn buồn ngồi đo', trên trường kỷ, chờ đợi một cái gì xảy đến...". Cuộc sống của Quỳnh và Giao uể oải, đờ đẫn, đơn điệu, không vui, không buồn, không sáng, không tối, nhợt nhạt, nửa thức, nửa ngủ, quẩn quanh trong những cái không bao giờ thay đổi. Cuộc sống ấy khiến tác giả "thương hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh, khi chiều giăng lưới qua muôn gốc cây". Tác giả muốn hai cô đừng sống một cách đờ đẫn mà hãy sôi động lên, ít ra cũng là ở tính cách: "Giá họ đàng điếm, hung dữ, trơ trẽn lẳng lơ, tôi sẽ được vui vì thấy họ có việc... thà họ làm cho tôi ghét còn hơn làm cho tôi thương". Nhưng vô ích, ngay cả khi nhân vật tôi cố tình chọc ghẹo, tô ra "kém giáo dục" cốt để hai co cau kinh hay tức giận... nhưng buồn thay, các cô vẫn chẳng có' phản ứng gì, ngoại trừ mắt của cô em có về "ướt hơn thường ngày"...
Và Xuân Diệu không chỉ nói về hai người con gái ấy, nhã vãn tựa hồ muốn dựng lại cả một thế giới mà trong đố mọi người đểu sống tẻ nhạt, buồn chán như nhau. Cảm giác ấy người đọc chẳng những có thể nhận thấy dễ dàng ở hai cô gái Quỳnh và Giao mà còn nhận thấy ở các nhân vật ông bố và bà mẹ. Họ có mặt mà cũng như không. Có lẽ chính vì thế mà lúc đẩu tác giả nghĩ: "ông chủ góa vợ, hai cô mồ côi", Ông bố thì không có gì để làm, không cổ gì để nghĩ, bất động trong một căn phòng nửa . sáng nửa tối, Và vì không có việc gì để làm, không có gì để nghĩ nên đối với ông, việc tủn mủn thường nhật cũng trở thành hệ trọng. Chẳng hạn: việc tác giả vội đi vào gác trong không kịp xin phép đã bị ông cự lại và coi đó như một sự kiện lớn lao của ngày hôm ấy.
Ngoài ra, ngay anh bạn Phần của tác giả cũng có một cuộc sống tuy không khổ, nhưng cũng chẳng có gì vui vẻ. Cuộc sống của anh tẻ nhạt và chán chường đến nỗi nếu tác giả "gặp được nơi khóe môi anh một chút nhíu da giống như một phần sáu của nụ cười", thì đó cũng đã là điều khiến tác giả vui vui và nghĩ đến một điều tốt lành cho anh.
Bên cạnh những con người sống tẻ nhạt, thiếu sinh sắc là một khung cảnh chán chường, không có lấy một chút dáng vẻ riêng. Tất cả cảnh vật vã con người tồn tại mà như không tồn tại, cho dù chỉ cách chợ Hàng Da náo nhiệt có "một trăm bước chân".
Khi viết về cái thế giới nhạt nhòa ấy, Xuân Diệu không muốn lên tiếng tố cáo cái nghèo khổ, tối tăm... Cuộc sống của hai cô gái Quỳnh và Giao, chùa Phan hay của ông bố không nghèo, không tối tăm, không bất hạnh, không bị xã hội tàn bạo vùi dập, tức là họ không được miêu tả như Ngô Tất Tố viết về chị Dậu (Tắt đèn) hãy như Nam Cao viết về Chí Phèo. Trong cách nhìn của Xuân Diệu, hình .như cái nghèo, cái xấu, cái tối tăm... cũng có bản sắc; và do đó, chúng cũng có thể gợỉ ra, định vị được một cái gì đó riêng biệt trong cuộc đời này. Cái mà Xuân Diệu không thể nào chấp nhận được không phải là nghèo khổ, tối tăm, mà là một lối sống một cách sống nhạt nhòa, không bản sắc như ngọn đèn sáng leo lét, chực tắt, nhưng không tắt hẳn.
Thế giới bao trùm của Tỏa nhị Kiều và thế giới không có gì là của riêng minh, triển miên trong một nỗi buồn âm thầm. Đấy là một "Ao đời bằng phẳng", mỗi con người đều không phải là một bản ngã, không phải là một cái "tôi”. Theo Xuân Diệu, điểu cần nhất ở hai cô Quỳnh và Giao không phải là sự nết na, thùy mị... mà mái cô phải có nét gì đó để chứng tỏ cái "tôi" cá nhân, cá thể của mình thật sự có mặt trên đời. Nhà thơ cảm thấy bất bình với những con người, những cuộc đời không bản sắc, tồn tại mà như không tồn tại, một trạng thái đỡ đầu, uể oâi, ngày này qua tháng khác chẳng có chút đổi thay.
Nếu như ở những bài thơ Vội vàng hay Giục giã, Xuân Diệu trực tiếp thể hiện lòng ham sống, sống mãnh liệt, sống chói lọi:
Ta muốn ôm,
Cả sự sống bắt đầu mơn mởn;
... Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng)
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
(Giục giã)
thì ở Tỏa nhị Kiều, Xuân Diệu lại muốn trình bày khát vọng trên đây ở dạng phản đề: ông vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh vô cùng buồn chán tội nghiệp của những con người sống mà như không sống, những gương mặt "mờ mờ nhân ảnh"...
Tỏa nhị Kiều đúng như Xuân Diệu nói, là một "truyện ý tưởng". Câu chuyện chử yếu gợi cho người đọc suy ngẫm về một "ý tưởng" của tác giả. Do đó, phần hết sức quan trọng của tác phẩm không chỉ ở tình tiết, nhân vật mà còn ở những đoạn bình luận trữ tình ngoại đề thông qua nhân vật "tôi", người kể chuyện. Chẳng hạn, khi nhìn thấy cuộc đời vô vị của hai cô gái, tác giả liên liên tưởng đến "những cụ già còn đôi chút sức lực, ngày ngày quanh quất giữa bàn ghế trong nhà. Cứ tự nhiên im im như thế, các cụ ăn, ngủ và may thay trong lúc ấy, thì giờ qua...’’-, hoặc là: "Tôi rất nhớ những khi xế trưa, nắng ngà vào bếp nhà tôi. Lửa tắt, than lạnh, chỉ còn đôi con ruổi lơ thơ đậu dưới đất thỉnh thoảng bay lên kêu vo vo... Đến nỗi một người đơn giản như mẹ tôi cũng buột mồm nói "cơm mai rồi cơm chiểu, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm". Tác giả dẫn ra những câu chuyện ấy, thuật xem tướng chẳng liên quan gì với câu chuyện của hai cô gái Quỳnh và Giao. Kỳ thực, cũng chẳng khác gì nhau. Chúng ta bỗng giật mình nhìn lại, té ra chìm trong cái "Ao đời bằng phẳng” kia đâu phải chỉ có hai cô gái lỡ làng, đâu chỉ có chàng Phan hay ông bố các cô mà còn có biết bao người đang sống quanh ta và rất có thể “ thật đáng sợ - có cả chúng ta nữa!
Như vậy, rõ ràng, qua Tỏa nhị Kiều, Xuân Diệu đã đưa ra lời cảnh báo về khả năng nhàm chán trong cuộc sống của mỗi một con người nếu không biết sống cho ra sống. Tác giả đã gián tiếp kêu gọi một cách sống mạnh mẽ, có bản sắc, cd cá tính, sống có ý nghĩa, sống hết mình với cuộc đời này, đem tất cả tài năng và tâm huyết của mình đốt lên ngọn lửa chói íõì làm rạng rỡ cho đời và cho sự sống của mình.
Đọc Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu, nhiều người thấy có -nét
tương đồng với ý tứ bài thơ Quẩn quanh của Huy Cận, truyện ngắn Đời thừa, tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao, hay một số truyện của Bùi Hiển {Ôm, Cái đồng hồ, Hai anh học trò có vợ... Những tác phẩm này chỉ có thể ra đời khi ý thức cá nhân đã thức tỉnh mạnh mẽ ở những người cầm bút vào những năm 30 của thế kỷ này. Xét ở một phương diện nào đó, có thể xem đó' là một bước tiến của tư tưởng Việt Nam trong quá trình phát triển lịch sử của nó trong thế kỷ XX.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
bichphuong

16/03/2023

Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:


  Một liền đồng tước khóa xuân hai kiều


 Câu thơ ấy, Nguyễn Du đã dịch sát câu thơ Đường của Đỏ Mục:


 Đổng tước xuân thăm tỏa nhị kiều


   Trong truyện ngắn Tỏa nhị kiều của Xuân Diệu, hai kiều không phải là Đại Kiều, Tiểu Kiều thời Tam quốc, hay Thúy Vân, Thúy Kiều “năm Gia Tỉnh triều Minh", mà là một đòi chị em của một gia đinh người Việt Nam sống vào những năm ba mươi của thế kỉ XX hiện đại.


   Trong truyện ngắn của mình, Xuân Diệu đặt tên cho “nhị kiều” bằng tên của hai loài ngọc đẹp: Cô Quỳnh và cô Giao. Nhưng hai cô có gì đặc biệt khiến cho một nhà thơ phải đưa làm nhân vật chính của một truyện ngắn?


   Trước hết là cái hoàn cảnh mà hai cô đang sống. Xuân Diệu cho biết đó là một gia đình không phải là giàu, tuy trong nhà có đủ cả “sập gụ, tủ chè, câu đối, hoành phi’’, có cả “bộ bàn ghế Vân Nam chạm chim trái và nạm cẩm thạch". Không giàu nhưng lại không nghèo, cái đáng buồn chính là ở chỗ đó. Sự lấp lửng của hoàn cảnh cũng sẽ tạo nên sự lấp lửng của tính cách và số phận. Ôi, nếu không giàu thì cứ nghèo quách đi, người ta sống theo cách sống của người nghèo, với những lo toan và tranh đấu của người nghèo, chứ sống như thế này, chẳng ra mòn cũng chẳng khoai, thế thì khó sống thật. Nhà văn có ý muốn nói với người đọc như thế. Với cách trình bày như thế, cái gia đình này lại muốn chứng tỏ rằng ta đây cũng vào loại khá giả. Thế mới càng khó chịu hơn, bởi điều này thể hiện một thứ tâm lý khó biểu hiện trưởng gia. Cứ nhìn vào dáng vẻ của ông chủ nhà (tức người cha của hai Cũ sai thi biết. Nhà văn viết: "... mắt ông tròn như hai chấm mực, miệng ông hơi chau đôi môi gia tới trước như kình với ai. Ông thường ngồi trèo chân trên sập giữa, một lần ông đã cự tôi vì tôi gấp rút vào gác song không kịp xin phép ông”. Đó là một con người tự cảm thấy mình là người quan trọng, hay ít nhất, muốn làm cho người khác cảm thấy mình là người quan trọng, một cách tự tôn để chạy trốn khỏi mặc cảm tự ti trong chính lòng mình. Xuân Diệu đã nghĩ rất đúng: “Và từ đó tôi càng thương ông lắm”. Thương ông là phải, bởi ông ta thật đáng thương, thật tội nghiệp trước một cuộc đời không có gì để cảm thấy mình có ý nghĩa, không có gì để vươn tới ngoài việc xét nét người ta những chuyện cỏn con.


   Sinh ra và sống giữa một cuộc sống như vậy, hai cô Kiều của Xuân Diệu thật là hai con người tội nghiệp. Giá như hai cô đừng mang tên hai loài ngọc đẹp nổi tiếng, tượng trưng cho cái đẹp, như Nguyễn Du từng viết:


  Một vùng như thể cây quỳnh cành giao


   Tên Quỳnh với tên Giao, hai cái tên buộc người ta phải tưởng tượng ra những cô gái đẹp, hai chị em nhà này lại không đẹp. Cô em thì “hơi xinh, mặt cô tròn”. Cô chị thì giống cha cô, “mà cha cô thì chẳng khôi ngô chút nào”. Nhan sắc thì thế, tính cách hai cô lại giống hệt như nhan sắc của họ. Nói tính cách, thật ra tính cách nổi bật nhất của hai cô là ở chỗ chẳng có tính cách gì cả. Điều gì ở họ cũng nhạt nhòa, cũng nửa vời. Không hiền nhưng cũng chẳng dữ, không khôn ngoan sắc sảo nhưng cũng chẳng phải là ngây thơ, họ “ngây ngây thơ thơ“, lặng lẽ và ngơ ngác. Đến màu áo họ mặc cũng chẳng rõ màu gì, chỉ là “rất thanh đạm, vì nhạt nhẽo nên buồn buồn”.



   Họ sống để làm gì vậy? Hình như chẳng làm gì cả. Trong ngôi nhà vắng lặng, người cha lặng lờ hết vào lại ra, hai cô cũng hết ra lại vào. Hai cô vui hay buồn? Chẳng vui mà cũng chẳng buồn, hai cô chỉ “buồn buồn ngồi đó”. Trong ngôi nhà của họ không hề có tiếng khóc nhưng cũng chẳng hề có tiếng cười. Như vậy mà gọi là sống ư? Xuân Diệu tự hỏi để rồi so sánh sự sống của họ như sự tồn tại của cỏ cây, họ là hai cái cây. Tự mình so sánh rồi tự mình Xuân Diệu cũng phủ nhận luôn sự so sánh đó: “Họ còn thua hai cái cây bởi cây còn ra hoa ra trái chứ đời con gái của họ biết làm gì? Không sắc, không duyên, và cũng không tiền, chỉ có hiền lành. Hiền lành là một điều tốt của con người, nhưng ở đời mà “chỉ có hiền lành” làm tài sản duy nhất thì buồn thật!


   Sống, theo Xuân Diệu, là phải có cái gì để chờ đợi. Hai cô gái này có gì để mà chờ đợi? Cũng có đấy, nhưng cái điều chờ đợi ấy, sao mà tội nghiệp: “Cô em có một đợi chờ: là chồng". Thế mà cả cái đợi chờ nhỏ bẻ tội nghiệp ấy, với cô em thì là một viễn vọng”, còn với cô chị: “chồng cô đã ly dị với cô. Hỡi ôi! Cô Giao còn biết gì để mà trông ngóng?”.


   Trên đời này, cái đáng sợ nhất cho mỗi đời người không phải là cái nghèo, cái giỏi hay cái khổ, mà chính là sự nhạt nhòa vô vị của cuộc sống. Sống mà không có lấy một cái gì để chờ đợi và hi vọng, để yêu thương và giận hờn, đỡ khổ đau và hạnh phúc, sống như vậy sao có thể gọi là sống? Xuân Diệu viết một câu nghe buồn đến lạnh người: “Tôi thương ví như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh, khi chiều giản dị lướt qua muôn gốc cây. Buổi chiều của hai cô mờ nhạt và kéo dài, hai cô lẫn "mù sương". Thương hai chị em cô Quỳnh cô Giao, Xuân Diệu cũng xót thương bao nhiêu kiếp người ngày đó: hẩm hiu, nhạt nhẽo. Thương cho họ, Xuân Diệu cũng không giấu một lời trách móc: Cả đến một nỗi sầu tư hay chán nản gớm ghê, họ cũng không được.


   Nhà văn Lỗ Tấn có lần nói về người nông dân ngày trước: Ai kỳ bất hạnh, nô kỳ bất tranh (thương họ phải đau khổ, nhưng giận họ không dám đấu tranh. Tất nhiên Xuân Diệu không thể có đựơc những tư tưởng mạnh mẽ như vậy, nhưng với những lời rất nhẹ như những câu thơ viết về nỗi buồn của Xuân Diệu. Tỏa nhị Kiều gây cho ta mội cảm giác nghèn nghẹn ở nơi ngực. Ta trân trọng những cảm xúc đầy tinh thần nhân văn của nhà thơ và hình như lại cảm thấy rằngXuân Diệu cũng đã nói hộ mình nhiều điều trong tâm trạng của mình.


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved