28/03/2023

28/03/2023
28/03/2023
Đã có khá nhiều bài viết phân tích thế nào là một tác phẩm văn học hay, tác phẩm văn học lớn; tác phẩm văn học hay phụ thuộc vào những yếu tố nào?… Không ít lập luận trong các bài viết đó có tính thuyết phục, nhưng hình như các tác giả của bài viết nhiều khi chưa đi sâu phân tích kỹ tính tối quan trọng của nhân trong các tác phẩm văn học. Bởi xét cho đến tận cùng, dù nhà văn có viết gì đi nữa thì đích đến vẫn là con người, nhằm phục vụ con người. Đơn giản là vì chỉ có con người mới biết đọc một cách đúng nghĩa, biết phân tích, tư duy và biết đồng sáng tạo…cùng với nhà văn. Vẻ đẹp của nhân vật trong nhiều tác phẩm văn học vừa kế thừa những nét đẹp truyền thống lại vừa mới mẻ, in đậm dấu ấn thời đại. Đặc biệt từ nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân và hình ảnh người lính trong bài thơ đồng chí của nhà thơ Chính Hữu là những hình ảnh rất đời, rất truyền thống của nét sống của người Việt Nam xưa.
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu... nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Các anh là những người nông dân chất phác, vì đất nước còn nghèo, còn khó khăn nhưng trên đó là cảnh đất nước bị xâm chiếm, các anh đành bỏ lại tất cả “ruộng nương, gian nhà” những tài sản lớn nhất của cuộc đời mình để xung phong lên đường nhập ngũ, bảo vệ quê hương, đất nước.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Khi những người nông dân mặc áo lính chiến đấu “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là các anh đã cùng chung một lý tưởng, chung một chiến hào, họ sát cánh bên nhau, trở nên gần gũi với nhau.Khi mà chúng ta thiếu thốn về tất cả mọi mặt và phải đối diện với thời tiết khắc nghiệt phải “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ” để các anh ngày càng gần nhau hơn nữa, đến cái chăn cũng khó đủ để đắp, các anh “chung bát, chung đũa, chung chăn, chung lý tưởng”, “thương nhau chia củ sắn, củ khoai, chăn sui đắp cùng”. Chính những lúc thiếu thốn, khó khăn này làm nảy sinh ra biết bao nhiêu tình cảm, khi tấm chăn đắp lại là lúc tâm tình mở ra, họ kể cho nhau rất nhiều về đời sống, tình yêu, gia đình, làm họ ngày càng hiểu nhau hơn và dần dần tình cảm ấy trở thành “đôi tri kỉ”. Khi hai từ “đồng chí” được cất lên là biết bao nhiêu tình cảm trong họ trỗi dậy, đó là tiếng gọi tha thiết cất lên từ trái tim của những người có cùng chí hướng đánh giặc cứu nước.Chính Hữu đã từng tâm sự rằng: “Những ngày đầu kháng chiến, từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng, nói về tình cảm của các anh bộ đội. Cuộc sống của người này trở nên cần thiết đối với người kia. Họ bảo vệ nhau trước mũi súng kẻ thù, cùng đi qua cái chết, cùng thực hiện lý tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa sâu sắc về tình đồng chí.”
Hình ảnh “ruộng nương, gian nhà” là những hình ảnh quen thuộc trên mọi làng quê Việt Nam, đó là tài sản lớn nhất của cuộc đời họ, nhưng rồi họ đành bỏ lại tất cả để lên đường chiến đấu, vượt lên trên hết đó là tình yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hy sinh vì cuộc kháng chiến của dân tộc.Nhưng họ đâu chỉ có chia sẻ cho nhau những tâm tư, tình cảm trong cuộc sống mà họ còn chia sẻ và động viện nhau trong những thiếu thốn, gian khổ của cuộc chiến tranh:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
…
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bệnh sốt rét là căn bệnh nguy hiểm và phổ biến trong bộ đội ta lúc bấy giờ, nhưng bộ đội lại thiếu thốn về cả mặt thuốc men, chính vì thế mà các anh phải đấu tranh, chống chọi lại, có người còn “tóc không mọc” được vì căn bệnh đó tàn phá, nhưng khi đó đã có tôi và anh, chỉ cần chúng ta có nhau vì chung ta chiến đấu vì lòng yêu nước, vì lý tưởng cách mạng. Qua đó để chúng ta thấy được tình yêu thương mà họ dành cho nhau thật đáng quý.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bày tay ấy truyền hơi ấm cho nhau, cùng nhau vượt qua bệnh tật, vượt qua thời tiết khắc nghiệt, tiếp thêm sức mạnh cho nhau. Nhà thơ từng bộc bạch rằng: “tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó để kể hết nhưng chúng tôi đã vượt qua nhờ sự gắn bó tiếp sức giữa các đồng đội trong quân ngũ, cho tới hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn cảm xúc bồi hồi”. Điển hình là hình ảnh “đầu súng trăng treo”. “Đầu súng trăng treo” là biểu tượng cao đẹp nhất của tình đồng chí. Với 3 câu thơ đó khi đọc lên ta thấy được bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí đã được dựng lên trên cái nền của thiên nhiên khắc nghiệt “đêm nay rừng hoang sương muối”, giữa một buổi đêm khuya với một không gian rộng lớn, bát ngát của núi rừng Việt Bắc, rừng hoang sương muối phủ trắng trời, thời tiết, địa lý khắc nghiệt đó như là thử thách cho tình đồng đội của người lính. Khi Chính Hữu dựng nên cái nền như thế để tác giả tạo nên sự đối lập giữa thiên nhiên rừng núi với bức chân dung của người, tác giả sử dụng không gian địa lý đó để làm nền tô đậm thêm bức chân dung đấy trong tư thế họ đứng cạnh nhau chờ giặc. Nhà thơ từng chia sẻ: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng, đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có 3 nhân vật: “khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu", ba hình ảnh ấy quyện vào nhau tạo thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” ngoài hình ảnh thì 4 chữ này còn có nhịp điệu như nhịp tắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh trong sự bát ngát, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao và xuống thấp dần, có lúc lại treo lơ lửng đầu mũi súng”. Với động từ “chờ” nghĩa là sẵn sàng, chủ động, hiên ngang chờ giặc, trong thời tiết khắc nghiệt họ vẫn bình thản, lãng mạn bên cuộc chiến này, có lẽ chỉ có những người lính mới có vẻ đẹp tâm hồn như thế, tâm hồn này đã được tôi luyện, đã dạn dày kinh nghiệm nơi chiến trường rồi thì mới có được cái tâm thế như thế được. Gian khổ là thế, khó khăn là thế, bom đạn của kẻ thù là thế, mà có thể khiến cho những người lính của chúng ta mất đi cái vẻ đẹp ấy, luôn chan chứa về tình đồng đội, về niềm tin rằng ngày mai cuộc chiến của chúng ta sẽ giành thắng lợi. Nếu như khổ đầu của bài thơ là tình đồng chí, khổ thứ hai là “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, thì khổ 3 là hình ảnh “đầu súng trăng treo” là điểm nhấn của khổ 3 và điểm sáng của cả bài, nó thổi bùng lên hình ảnh tươi đẹp về tình đồng chí. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” có hai ý nghĩa. Tả thực: đó là hình ảnh của những người lính hằng đêm vẫn thay phiên nhau canh gác, khi đó họ phải đứng trên một chòi cao để quan sát được xa và rõ nhất, khi đó thì các người lính chĩa ngọn súng của mình lên bầu trời, khi mà trăng sao sáng trong như vậy, khi ta nhìn từ dưới lên trên thì ta nhìn thấy ngọn súng của những người lính, chạm vào ánh trăng, trăng như sà xuống đậu trên đầu của ngọn súng, vì thế trăng chính là một người bạn, treo trên đầu ngọn súng. Còn ý nghĩa thứ là ta hãy liên tưởng thử xem, nếu hình ảnh “đầu súng” vốn tượng trưng cho chiến tranh, còn “trăng” tượng trưng cho hòa bình, tác giả đặt hòa bình với chiến tranh, hiện thực với lãng mạn để ta thấy được Chính Hữu có điểm nhìn đầy lãng mạn, đầy tin yêu.
Hình ảnh người lính là dấu ấn của thời đại theo thơ ca Việt Nam khắc họa dấu ấn và biểu tượng của một Việt Nam có truyền thống yêu nước, bảo vệ nước nhưng mang một dấu ấn, một luồng khí mới của các chàng lính trẻ cùng nhau vượt qua khó khăn gian khổ.
Trái với những hình ảnh của người lính, nhân vật ông Hai lại có một cách xây dựng khác, ông Hai yêu nước chính vì yêu nước nên dù rơi vào hoàn cảnh tứ cố vô thân, ông cũng quyết không về cái chốn đã theo tây. Ông Hai là một hiện thân khác của truyền thống yêu nước bất diệt của nhân dân ta.
Đọc truyện ngắn "Làng" người đọc rất ấn tượng về nhân vật ông Hai là người dân hiền lành, cần cù, chăm chỉ, chất phác và có tình yêu dành cho làng chợ Dầu luôn bùng cháy mãnh liệt. Khi chiến tranh xảy ra ông phải đi tản cư "tản cư âu cũng là kháng chiến" ông nhớ làng, khoe về làng đẹp, giàu: nhà ngói san sát, sầm uất. Ông vui, tự hào, hãnh diện về làng. Ông còn khoe cả cái sinh phần của viên tổng đốc mà không nhận ra viên tổng đốc là kẻ thù của mình. Ánh sáng cách mạng đã soi rọi tới cuộc đời tăm tối của ông để biết ai là kẻ thù để ông không còn khoe về nó nữa. Ông từng tham gia xây dựng những công trình kháng chiến: đào đường, đắp u, xẻ hào... những công việc vất vả nhưng ông tham gia với tinh thần hăng say, vui vẻ, trách nhiệm. Tình yêu làng quê của ông Hai không chỉ thể hiện bằng lời nói mà bằng hành động cụ thể người nông dân ấy sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Tình yêu làng quê đã hòa quyện trong tình yêu nước. Ông Hai có thói quen là đến phòng thông tin niềm vui sướng khi nghe được tin chiến thắng của quân ta dù có nhỏ nhưng với suy nghĩ "tích tiểu thành đại làm gì mà thằng Tây chả bước sớm". Những suy nghĩ ấy của người nông dân về kẻ thù khi còn rất đơn giản nhưng nó cũng thể hiện niềm tin nhất định thành công của cách mạng. Đó chính là nhận thức tư tưởng mới của ông Hai khi có ánh sáng cách mạng.
Nhà văn đã khéo léo đưa vào tình huống truyện bất ngờ được đẩy lên cao trào khi để nhân vật bộc lộ rõ một chuỗi diễn biến trong tâm lí. Tin làng chợ Dầu theo Tây giống như "một gáo nước lạnh" làm tắt ngấm ngọn lửa yêu làng bấy lâu trong lòng ông Hai. Tin đến đột ngột bất ngờ khiến cho ông choáng váng "tưởng như không thở được" tưởng như tai nghe nhầm. Nhưng rồi nghe rõ tên người tên làng khiến cho ông Hai xấu hổ. Câu nói "Hà, nắng gớm, về nào!" là cái cớ để ông lảng tránh mọi người ra về. Ngòi bút của nhà văn hướng tới miêu tả hình ảnh của ông Hai đi trên đường với dáng vẻ đi nhanh, mặt cúi gằm vì trong lòng thấy xấu hổ, nhục nhã. Những giọt nước mắt đã rơi xuống khi nhìn thấy con với ý nghĩ: "Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?", "Ai người ta chứa. ai người ta buôn bán mấy." dòng ngôn ngữ độc thoại nội tâm kết hợp với câu hỏi tu từ diễn tả nỗi lo lắng của ông Hai cho con, cho những người dân làng chợ Dầu. Và rồi bao nỗi lo lắng tủi nhục cũng biến thành cơn giận dữ tiếng chửi đổng nhằm vào lũ Việt gian. Hai chữ Việt gian đã trở thành vết nhơ, vết nhục khó gột rửa trong lòng ông Hai mà khiến mọi người đều căm ghét. Chính trong lúc đau đớn ấy ông Hai hướng về những người đang ở lại làng với niềm tin chắc chắn " họ quyết tâm một sống một chết với giặc" nhưng rồi cái tin làng chợ Dầu theo Tây lại làm cho ông nghi ngờ " Không có lửa làm sao có khói". Ông từng có ý định về làng nhưng lại không về "Làng thì yêu thật đấy nhưng làng theo Tây thì phải thù". Là một người đã từng yêu làng đến cháy bỏng mãnh liệt mà giờ đây phải nói câu thù làng chắc hẳn trong lòng ông vô cùng đau đớn. Ngòi bút nhà văn tập trung miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, khắc họa một cách sinh động chân dung nhân vật ông Hai nỗi xấu hổ, tủi nhục, đau đớn, lo lắng, tức giận khi nghe được tin làng theo Tây.
Để vơi đi nỗi đau đớn ông lại trò chuyện với con "Con có muốn về làng chợ Dầu không? Con ủng hộ ai?" Và người cha ấy nhận được câu trả lời "Con có muốn về làng. Con ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm." Đoạn đối thoại tuy ngắn các câu hỏi và câu trả lời đều xoay quanh làng chợ Dầu. Có thể nói rằng cuộc trò chuyện chỉ là cái cớ để ông Hai giãi bày nỗi lòng mình mặc dù nói thù làng nhưng trong lòng ông vẫn rất nhớ và muốn quay lại làng. Cho dù đã có lúc tình yêu ấy có bị thay đổi nhưng lòng tin vào cụ Hồ vẫn bền chặt thiêng liêng chưa bao giờ thay đổi. Đó chính là sự chuyển biến mới trong nhận thức tư tưởng, tình cảm của ông Hai hay của những người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Có thể nói rằng từ khi nghe làng chợ Dầu theo Tây ông Hai như sống trong những ngày tháng tăm tối bế tắc tuyệt vọng. Ngòi bút miêu tả diễn biến tâm lí của nhà văn như làm khơi sâu nhận rõ thế giới nội tâm của nhân vật lúc cảm thấy xấu hổ nhục nhã, lúc lại đau đớn tức giận.
Và rồi niềm tin của ông Hai trở thành hiện thực khi ông nhận được tin làng cải chính. Lòng kiêu hãnh của ông trở lại thói quen khoe tin làng không theo Tây khoe cả nhà bị Tây đốt. Trong lời khoe ấy vẻ đẹp nhân vật ông Hai nhận ra lòng tự trọng coi danh dự của làng quê hơn tài sản của mình.
Đoạn trích không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về nghệ thuật. Xây dựng cốt truyện tập trung vào sự việc người dân đi tản cư. Tạo tình huống truyện bất ngờ, đặc sắc. Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật thông qua các hình thức ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nội tâm. Lời văn đậm chất khẩu ngữ của người dân Bắc Bộ. Đoạn trích đã viết về vẻ đẹp nhân vật ông Hai người có tình yêu làng quê mãnh liệt, có lòng tự trọng... Với nhà văn Kim Lân người đã từng sống và gắn bó am hiểu đời sống tâm lí của người nông dân để rồi nhà văn nhìn thấy ẩn sâu vẻ đẹp bình dị chất phác ấy của ông Hai hay của người nông dân là tình yêu làng, yêu nước. Họ là đội quân chủ lực của cuộc kháng chiến chính điều đó đã làm nên thành công cho tác phẩm, cho nhà văn mà các nhà văn cùng thời chưa làm được.
Đọc xong truyện ngắn Làng nhưng tinh thần, vẻ đẹp của nhân vật ông Hai, của người nông dân thì để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên. Hiểu về họ ta càng thêm yêu quý và khâm phục họ hơn. Nhìn lại người nông dân trong thời đại ngày hôm nay họ vẫn phát huy truyền thống yêu làng, yêu nước xây dựng quê hương để trở thành làng quê đẹp, nông thôn mới.
Qua cảm nhận hai nhân vật trên, chúng ta nhận thấy sâu sắc những nét đẹp từ những người lính và ông Hai được kế thừa mạnh mẽ từ tinh thần yêu nước từ bao đời nay đã in sâu trong máu người Việt ta. Con người Việt Nam hiện lên trong các tác phẩm văn học vừa mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, vừa mang vẻ đẹp của con người mới dưới chế độ Chủ nghĩa xã hội. Các tác phẩm phác họa vẻ đẹp của con người Việt Nam bằng sự thấu hiểu sâu sắc, bằng thái độ ngợi ca và trân trọng hết mình. Qua đó cho thấy văn học hiện đại phát huy tinh hoa bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt, có sự kế thừa và phát huy những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, đồng thời góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách cho các thế hệ của con người Việt Nam.
28/03/2023
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: có đủ các phần mở bài, thân bài và kết bài; mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng (Kim Lân để làm sáng tỏ nhận định “Vẻ đep nhân vật trong nhiều tác phẩm văn học vừa kể thừa những nét đẹp truyền thống lại vừa mới mẻ, in đậm dấu ấn thời đại”.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
* Giới thiệu tác giả - tác phẩm
* Giải thích
- Nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học là hình thức khái quát đời sống. Đọc tác phẩm, cần tìm hiểu hết nội dung đời sống và nội dung tư tưởng thể hiện trong nhân vật.
- Những nét đẹp truyền thống: những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam đã có từ lâu đời.
- Những nét đẹp mới mẻ, in đậm dấu ấn thời đại: là những phẩm chất tốt đẹp mới xuất hiện, ghi dấu sự chuyển biến về tư tưởng, tình cảm của con người Việt Nam.
> Vẻ đẹp mang dấu ấn đặc trưng của hình tượng văn học trong tác phẩm nghệ thuật trên tiến trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam.
* Phân tích, chứng minh
- Ở bài thơ Đồng chí:
+ Hình ảnh người lính với vẻ đẹp truyền thống: là những người nông dân chân chất, mộc mạc, ra đi từ những miền quê nghèo khó; sẵn sàng gạt bỏ tình riêng vì nghĩa lớn; giàu tình cảm, nặng lòng với quê hương xứ sở; vượt lên mọi khó khăn thiếu thốn để hoàn thành nhiệm vụ với phong thái tự tin, chủ động...
+ Vẻ đẹp mang đậm nét thời đại: đó là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội, một tình cảm mới của văn học đương thời. Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu, được thể hiện một cách tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng. Đó còn là vẻ đẹp của một tâm hồn yêu đời, lãng mạn “Đầu sáng trăng treo”...
+ Nghệ thuật: ngôn ngữ mộc mạc, bình dị nhưng cũng hết sức gợi cảm, lôi cuốn, hình ảnh thơ đặc sắc, chọn lọc, vừa chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, kết hợp cảm hứng hiện thực và lãng mạn, sử dụng bút pháp hiện thực khắc họa hình tượng nhân vật...
- Ở truyện ngắn Làng:
+ Lòng yêu nước của nhân vật ông Hai tiêu biểu cho lòng yêu nước của những người nông dân thuần hậu, chất phác: trong những ngày tản cư, ông luôn nhớ về là làng, tự hào về tinh thần kháng chiến của làng, muốn trở về làng để cùng anh em chiến đấu; nỗi đau đớn, xấu hổ, tủi nhục khi nghe tin làng theo giặc...
+ Nhưng ở nhân vật ông Hai không chỉ có lòng yêu nước thuần túy mà còn có cả sự phát triển về tình cảm và nhận thức của người nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp: từ tình yêu làng phát triển thành tình yêu Đảng, lòng thủy chung với cách mạng, niềm kính yêu và trung thành với lãnh tụ; từ tình yêu nước phát triển thành tình yêu kháng chiến, tinh thần kháng chiến, sự lựa chọn một cách dứt khoát, rạch ròi: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù, niềm sung sướng, tự hào khi làng mình vẫn trung thành, thủy chung với kháng chiến cho dù nhà ông bị giặc “đốt nhẵn” cả rồi...
+ Nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, gay cấn, hấp dẫn, từ đó bộc lộ được đời sống nội tâm và tính cách nhân vật; miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, hấp dẫn; ngôn ngữ nhân vật sinh động, thể hiện rõ cá tính nhân vật...
* So sánh
- Hình tượng nhân vật vừa mang vẻ đẹp truyền thống, vừa có nét mới mẻ, hiện đại.
+ Vẻ đẹp truyền thống: Người nông dân nghèo khổ, hiền lành chất phác, nặng lòng với quê hương đất nước, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nghĩa lớn, đất nước...
+ Nét mới mẻ, hiện đại: tình đồng chí, tình yêu cách mạng, trung thành với lí tưởng, tinh thần cách mạng...
- Tuy vậy, mỗi tác phẩm lại có cách thể hiện riêng hình tượng nhân vật khác nhau, điều đó là do sự khác nhau về thể loại, đề tài, hoàn cảnh sáng tác và phong cách mỗi nhà văn.
+ Đồng chí: hình tượng nhân vật trữ tình, hình tượng người lính ở mặt trận tiền tuyến trong những năm chống Pháp...
+ Làng: hình tượng nhân vật tự sự, hình tượng người nông dân yêu nước, yêu cách mạng, yêu kháng chiến ở hậu phương trong những năm chống Pháp...
* Đánh giá
- Bài thơ Đồng chí và truyện ngắn Làng là những tác phẩm hay, xây dựng thành công hình tượng cao đẹp về con người Việt Nam thời chống Pháp.
- Ý kiến nêu ở đề bài là xác đáng, góp phần định hướng cho người đọc tìm hiểu hình tượng văn học, tiếp nhận tác phẩm văn học Việt Nam...
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời