Phân tích bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan. "Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn, Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn. Gác mái, ngư ông về viễn phố, Gõ sừng, mục tử lại cô thôn. Ngàn mai gió...

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Thuu Huyềnn
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

02/11/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một bài thơ miêu tả cảnh chiều tà, khi mà hoàng hôn buông xuống và mang đến một không khí yên bình và lãng mạn. Trong bài thơ, người viết đã sử dụng các hình ảnh như tiếng ốc xa vang, gác mái, ngư ông về viễn phố, gõ sừng, mục tử lại cô thôn để tạo nên một bầu không khí thân quen và gần gũi. Bài thơ cũng đề cập đến sự cuốn cuồn của gió, khiến cho chim bay mỏi và sương sa trên cành liễu khiến cho khách đi qua cảm thấy mệt mỏi. Cuối cùng, người viết đặt câu hỏi "Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?" để thể hiện sự cô đơn và nhớ nhà của mình. Tóm lại, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một bài thơ miêu tả về cảnh chiều tà và những cảm xúc của người viết khi xa nhà.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.5/5 (2 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
1 bình luận
Bình luận
avatar
level icon

Thuu Huyềnn

02/11/2023

Timi phân tích chi tiết

avatar
level icon
daothicamtien

02/11/2023

Câu trả lời uy tín

Ai đã từng đọc "Truyện Kiều" chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:

     "Sông sa vò võ phương trời,

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng".

  Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:

          "Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

            Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.

            Gác mái, ngư ông về viễn phố,

            Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

          Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

           Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

           Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

           Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

 Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ "bảng lảng" có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".

  Hai chữ "bảng lảng" là nhãn tự - như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:

"Trời tây bảng lảng bóng vàng" 

(Truyện Kiều)

    Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.

    Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn "xa đưa vẳng" lại. Chiều dài

(tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:
                               "Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

                                Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "

  Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách... thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có "chim bay mỏi" ... Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều...) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.

  Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của một "ngư ông" - ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác mái" biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:


"Gác mái, ngư ông về viễn phố".

  Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại "cô thôn", cử chỉ "gõ sừng" của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời.

"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".

  Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu.

  Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong "gió cuốn"; gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn" và "sương sa", đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:
                                   "Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,

                                    Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".

  Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!

  Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp:

 "Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ". 

Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. "Chương Đài" và "lữ thứ" trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. "Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:

"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

        Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

  "Chiều hôm nhớ nhà" và "Qua Đèo Ngang" hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí - thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố...) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Chiều hôm nhớ nhà" là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,…

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
2 bình luận
Bình luận
avatar

Nhật Nguyễn Văn

07/11/2024

làm ơn viết cho đúng viết phân tích xog r viết đoạn phân tích ở dưới cuồng là sao sao ko viết lên đầu cho dể đc


avatar

Nhật Nguyễn Văn

07/11/2024

phân tích dưa thừa


ADS
avatar
level icon
muniii✨️

02/11/2023

Thuu Huyềnn

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm văn chương đẹp và tinh tế, mang tính chất tình cảm và biểu đạt sự nhớ nhà và lòng đối với quê hương.


Tác giả sử dụng các hình ảnh tượng trưng để truyền tải cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc. Ví dụ, "Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn" tượng trưng cho sự xa cách và nhớ nhà. Câu thơ này không chỉ miêu tả âm thanh mà còn gợi lên hình ảnh của quê hương xa xôi, tạo nên một cảm giác cô đơn và nhớ nhà trong lòng người đọc.


Ngoài ra, tác giả còn sử dụng câu hỏi retorik để tạo ra một tác động mạnh mẽ và thúc đẩy người đọc suy nghĩ. Câu hỏi "Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?" không cần đáp án, nhưng nó tạo ra một tác động tâm lý và khơi dậy sự tương tác giữa tác giả và người đọc. Câu hỏi này thể hiện sự cô đơn và nỗi nhớ nhà sâu sắc, đồng thời khơi gợi sự suy ngẫm về ý nghĩa của quê hương và sự xa cách trong cuộc sống.


Bài thơ cũng có một âm điệu và nhịp điệu êm dịu, tạo nên một giai điệu nhẹ nhàng và thư thái. Sự lặp lại và nhịp điệu trong bài thơ tạo ra một không gian yên bình và thanh tịnh, phản ánh không chỉ tâm trạng của tác giả mà còn tạo nên một không gian tĩnh lặng và thư giãn cho người đọc.


Tổng thể, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" không chỉ thể hiện cảm xúc và tình cảm nhớ nhà mà còn sử dụng các nghệ thuật văn chương để tạo nên một tác phẩm đẹp và sâu sắc. Bài thơ này kết hợp giữa hình ảnh tượng trưng, câu hỏi retorik và âm điệu để truyền tải cảm xúc và ý nghĩa của tác giả.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
1 bình luận
Bình luận
avatar
level icon

Thuu Huyềnn

02/11/2023

Hellooooooo:> có thể phân tích thêm nghệ thuật của bài thơ không ạ?

avatar
level icon
NT

02/11/2023

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm thể hiện sự nhớ nhà và nỗi lòng của người xa quê. Dưới đây là phân tích chi tiết từng câu trong bài thơ:

Câu 1: "Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn"

Câu này miêu tả không khí chiều tà, khi mặt trời đã dần buông xuống và tạo ra ánh sáng và bóng râm đẹp mắt.

Câu 2: "Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn"

Tiếng ốc xa vang đưa, tượng trưng cho âm thanh xa xôi, mang đến cảm giác yên bình và êm đềm. Trống đồn có thể là biểu tượng cho cuộc sống quê hương, nơi mọi người tụ tập và giao lưu.

Câu 3: "Gác mái, ngư ông về viễn phố"

Gác mái là nơi người dân quê hương trông chờ người thân trở về. Ngư ông là người đi biển, đại diện cho những người xa quê trên biển. Viễn phố tượng trưng cho thành phố xa xôi, nơi người dân quê hương mong chờ và nhớ nhung.

Câu 4: "Gõ sừng, mục tử lại cô thôn"

Gõ sừng là âm thanh của trâu bò trên đồng cỏ, tượng trưng cho cuộc sống nông thôn. Mục tử là linh mục, đại diện cho những người xa quê trong cuộc sống tôn giáo. Cô thôn tượng trưng cho cuộc sống cô đơn và yên tĩnh ở nơi quê hương.

Câu 5: "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi"

Ngàn mai là cây mai, tượng trưng cho quê hương. Gió cuốn chim bay mỏi biểu thị cho sự mệt mỏi và khao khát trở về quê nhà.

Câu 6: "Dặm liễu sương sa khách bước dồn"

Dặm liễu là cây liễu, tượng trưng cho quê hương. Sương sa là sương mỏng, tạo ra không gian u ám và buồn bã. Khách bước dồn biểu thị cho những người xa quê, đi xa và đang trở về.

Câu 7: "Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ"

Chương Đài là một địa danh xa xôi, tượng trưng cho nơi xa quê. Người lữ thứ là những người đi xa, sống xa quê hương.

Câu 8: "Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?"

Câu này thể hiện sự cô đơn và khó khăn trong việc tìm người để chia sẻ nỗi nhớ nhà và nỗi lòng của người xa quê.

Tổng thể, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" thể hiện sự nhớ nhà và nỗi lòng của người xa quê, với những hình ảnh và âm thanh tượng trưng cho cuộc sống quê hương và những khao khát trở về. Bài thơ mang đến cảm giác buồn bã, cô đơn và sự khó khăn trong việc tìm hiểu .

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 1
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
J'Hanry

02/11/2023

Thuu Huyềnn

 Ai đã từng đọc "Truyện Kiều" chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:

"Sông sa vò võ phương trời,

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng".

  Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:

         "Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

     Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.

   Gác mái, ngư ông về viễn phố,

  Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

      Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,



        Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

       Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

  Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ "bảng lảng" có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".

  Hai chữ "bảng lảng" là nhãn tự - như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:

"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)

  Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.

  Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn "xa đưa vẳng" lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:

<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "

  Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách... thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có "chim bay mỏi" ... Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều...) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.

  Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của một "ngư ông" - ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác mái" biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:

<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>

"Gác mái, ngư ông về viễn phố".

  Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại "cô thôn", cử chỉ "gõ sừng" của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời.

"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".

  Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu.

  Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong "gió cuốn"; gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn" và "sương sa", đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:

<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>

"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".

  Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!

  Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: "Kẻ chốn

  Chương Đài người lữ thứ". Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. "Chương Đài" và "lữ thứ" trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. "Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:

"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

  "Chiều hôm nhớ nhà" và "Qua Đèo Ngang" hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí - thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố...) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Chiều hôm nhớ nhà" là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,...


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
1 bình luận
Bình luận
avatar
level icon

Thuu Huyềnn

02/11/2023

không coppy trên mạng Cáo nhỏ ?

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi