viết bài văn nghị luận về Tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật trong bài thơ KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của hihihaha
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

12/11/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Trong bài thơ "Kiều ở Lầu Ngưng Bích" của Nguyễn Du, tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều được thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Nhân vật Kiều đang trải qua những ngày đầu tiên của cuộc đời lưu lạc, cô đơn và vô vọng. Bằng cách miêu tả các cảnh vật xung quanh, nhà thơ đã tạo nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Đầu tiên, trong bài thơ, nhà thơ sử dụng hình ảnh "buồn trông cửa bể chiều hôm" để tả tâm trạng đau buồn của Kiều. Cửa bể chiều hôm mang ý nghĩa biểu trưng cho sự chia ly, xa cách và hy vọng tan vỡ. Kiều đứng trước cửa bể, nhìn ra xa xa, cảm nhận được sự tàn phá, mất mát trong cuộc sống. Điều này thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều khi bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn. Tiếp theo, nhà thơ miêu tả hình ảnh "buồn trông ngọn nước mới sa, hoa trôi man mác biết là về đâu?". Hình ảnh này thể hiện sự mất mát, bất an và lo lắng của Kiều. Ngọn nước mới sa, hoa trôi man mác tượng trưng cho sự thoáng qua, không ổn định và không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Kiều không biết mình sẽ đi về đâu, không biết cuộc sống sẽ đưa đẩy cô đến đâu. Điều này khiến tâm trạng của Kiều trở nên đau buồn và âu lo. Ngoài ra, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh "buồn trông nội cỏ rầu rầu, chân mây mặt đất một màu xanh xanh" để tạo nên tâm trạng u sầu, buồn bã của Kiều. Cảnh vật xung quanh Kiều đều mang màu xanh xám, tượng trưng cho sự u ám, tuyệt vọng trong tâm trạng của nhân vật. Nội cỏ rầu rầu, chân mây mặt đất tạo nên một không gian u tối, thấu hiểu được tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều. Cuối cùng, nhà thơ sử dụng hình ảnh "buồn trông gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi" để tạo nên tâm trạng cô đơn, bất an của Kiều. Tiếng gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng ầm ầm kêu quanh ghế ngồi tạo ra một không gian vắng vẻ, cô đơn. Kiều ngồi một mình, nghe tiếng sóng vỗ bờ, cảm nhận được sự lặng lẽ và cô đơn trong cuộc sống. Từ những hình ảnh cảnh vật được miêu tả trong bài thơ "Kiều ở Lầu Ngưng Bích", chúng ta có thể cảm nhận được tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều. Nhân vật Kiều đang trải qua những khó khăn, cô đơn và vô vọng trong cuộc sống. Các hình ảnh cảnh vật được sử dụng như một phương tiện để thể hiện tâm trạng của nhân vật, tạo nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Danhdung

12/11/2023

Câu trả lời uy tín

Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương Việt Nam. Đại thi hào Nguyễn Du đã vận dụng tài năng của mình, sử dụng nhiều hình tượng nghệ thuật độc đáo để khiến cho những lời thơ trở nên vừa bình dị, gần gũi, vừa trang trọng. Thế nhưng, nổi bật nhất phải kể đến bút pháp miêu tả nội tâm, tâm lí nhân vật cực kì đặc sắc. Trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", tác giả đã khắc họa rõ nét tâm trạng cô đơn, chán chường của Thúy Kiều.

Trước hết, ở sáu câu thơ đầu, ta thấy được nỗi cô đơn, bất hạnh, tội nghiệp của Kiều:

"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."

Câu thơ đầu tiên đã cho ta biết được hoàn cảnh của Kiều. Dù Tú Bà đã dùng những lời nói ngon ngọt dỗ dành nhưng Thúy Kiều vẫn không chịu tiếp khách. Vậy nên bà ta đành giam lỏng nàng trong lầu Ngưng Bích, đợi nàng khuất phục. Mỗi ngày, nàng đều đứng trên lầu cao ngắm nhìn cảnh vật xung quanh có "non xa", "trăng gần", "cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia". Đây đều là cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong thực tế nhưng cũng là cảnh ước lệ cho không gian mênh mông, vô định trước mắt nhân vật. Nghệ thuật đối, đảo ngữ được sử dụng khiến cho ta cảm thấy sự vật đều cách nhau rất xa, thể hiện sự bao la, vắng vẻ. Thúy Kiều thật đáng thương khi phải chịu đựng nỗi cô đơn trong khung cảnh rộng lớn cùng thời gian tuần hoàn khép kín "mây sớm, đèn khuya". Cảm tưởng như nàng sẽ phải chôn vùi tuổi xuân ở nơi này mãi mãi. Thế nên nàng càng chán nản, buồn tủi hơn giữa ngày dài tháng rộng, cảnh vật xa cách không có ai bầu bạn.

Vì thế, nàng đành dùng cách nhớ về những người thân yêu để nguôi ngoai phần nào nỗi cô đơn. Thế nhưng, càng nhớ lại càng đau đớn, xót xa hơn:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Chân trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai."

Đầu tiên, nàng nghĩ về chàng Kim. Thúy Kiều nhớ lại đêm thề nguyền cùng nâng chén hẹn ước giữa hai người. Thế nhưng giờ đây mộng tàn tình tan. Nàng đã ở một chân trời khác còn Kim Trọng có lẽ vẫn đang không ngừng mong ngóng tin tức của nàng. Chàng Kim đâu biết, thế giới của Kiều giờ đây đã nhuốm màu u tối. Nàng đã bị vấy bẩn bởi chốn lầu xanh, không thể giữ sự thủy chung son sắt nữa. "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" là một câu hỏi không có lời đáp, cũng là lời than thở, bộc bạch thể hiện nỗi đau, sự tủi nhục của Thúy Kiều. Dù có làm cách nào, đôi uyên ương cũng không thể quay lại như khi xưa được nữa.

"Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm."

Tiếp theo, Kiều nhớ đến cha mẹ ở nhà vẫn tựa cửa ngóng tin bình an của con gái. Tuy đã tự bán mình để có tiền chuộc cha và em thoát khỏi chốn lao tù, thế nhưng nàng vẫn day dứt vì không thể ở bên chăm sóc cha mẹ. Ở đoạn thơ này, Nguyễn Du đã sử dụng các điển tích, điển cố, thành ngữ như "quạt nồng ấp lạnh", "Sân Lai", "Gốc tử" để thể hiện nỗi lòng hiếu thảo của Thúy Kiều. Nàng lo lắng khi mình rời xa, sẽ không ai quạt cho cha mẹ ngủ khi trời vào hè nóng nực, không ai ấp chăn ấm cho cha mẹ nằm lúc trời trở gió đông. Thời gian trôi dần qua, cha mẹ ngày một già yếu, không biết cha mẹ có ai đó ở bên bầu bạn hay không.

Qua dòng hồi tưởng, người đọc đã thấy được hình ảnh của một nàng Kiều chung thủy, hiếu thảo. Dù đã không còn ở bên những người thân yêu nhưng chữ hiếu, chữ tình chưa vẹn toàn vẫn khiến nàng day dứt khôn nguôi. Từ đó, Kiều phóng tầm mắt ra ngắm nhìn cảnh vật xung quanh lầu Ngưng Bích. Thế nhưng "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nỗi buồn của nàng đã thấm lên cả cảnh vật xung quanh:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Trong tám câu thơ cuối này, bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. Chỉ bằng điệp ngữ "buồn trông" ở đầu câu kết hợp với những từ láy miêu tả khung cảnh, ông đã cho ta thấy tâm trạng của nàng Kiều. Ở cặp câu lục bát thứ nhất, ta thấy cảnh cửa biển, con thuyền buổi chiều hoàng hôn gợi nỗi nhớ nhà da diết trong không gian mênh mông. Cặp lục bát thứ hai có hình ảnh ẩn dụ "hoa trôi" chính là số phận lênh đênh, vô định, không thấy bến đỗ của Kiều. Cặp lục bát thứ ba thể hiện nỗi cô đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều khi khắp nơi chỉ có một màu xanh tẻ nhạt, ảm đạm. Và cuối cùng là dự cảm không lành về tương lai đầy bão tố sắp xảy đến. Khi nhìn ra ngoài mặt duềnh, Thúy Kiều mới chỉ thấy nó nổi lên mà trong tâm trí nàng đã nghe thấy âm thanh "ầm ầm" của thiên nhiên. Đây là cảm giác bất lực khi biết trước những bão tố sắp đến nhưng không thể làm gì được, chỉ có thể bị động ngồi chờ điều đó đến.

Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ như: đảo ngữ, đối, điệp từ, từ láy,... để miêu tả khung cảnh thiên nhiên nhưng thực tế là đang bày tỏ nỗi lòng của nhân vật trữ tình. Qua đó, người đọc nhận ra sự cô đơn, chán chường, tuyệt vọng của một giai nhân đang để tuổi xuân qua đi một cách vô ích nơi lầu son gác tía.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

khly08🍀

Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.

Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.

Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.

Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con có hiếu dù đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ thương khôn nguôi.

Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào. Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối. Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”. Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.

Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 1
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved