10/12/2023
10/12/2023
10/12/2023
Văn học nói bằng hình tượng, hình tượng nghệ thuật là khối pha lê lấp lánh làm nên giá trị tác phẩm văn học. Nếu cái thần của âm nhạc là giai điệu, của hội họa là đường nét và màu sắc thì cái thần của văn chương chính là ở hình tượng nhân vật. Song những tác phẩm văn học chỉ xây dựng nên những hình tượng về con người thì đó chưa hẳn là một tác phẩm vô giá.
Bởi trong sáng tạo nghệ thuật, điều quan trọng, đặc sắc nhất nhiều khi không phải ở hình tượng con người mà ở hình tượng nhân vật. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: “Chỉ những hình tượng thẩm mỹ được sinh ra từ sự thôi thúc của ý thức và những phát hiện của nhà văn mới thể hiện sâu sắc tư tưởng tác phẩm”.
“Nhà thơ tư duy bằng hình tượng” (Biêlinxki). Văn học ở bất kì thời đại nào muốn phản ánh hiện thực đời sống đều phải thông qua các hình tượng nhân vật điển hình. Nhà thơ tư duy bằng hình tượng, nhà văn cũng tư duy bằng hình tượng. Thế giới thêm sắc màu, cuộc sống thêm âm điệu bởi những hình tượng nhân vật điển hình độc đáo.
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó chính là con người” (Nguyễn Minh Châu). Văn học phản ánh cuộc sống và trung tâm là con người thông qua hình tượng nhân vật. Chính những hình tượng nghệ thuật độc đáo, có sức phổ quát, mang những ý nghĩa sâu sắc về nhân sinh đã góp phần làm nên nét riêng cho tác phẩm văn học. Người nghệ sĩ thường sáng tạo nên những tượng đài bất hủ về con người bằng cách xây dựng chính hình tượng nhân vật.
“Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm của người đọc”. Nhà văn lấy tư liệu từ hiện thực để xây dựng nên hình tượng điển hình và đặt vào đó tư tưởng thẩm mĩ của mình. Tôi nhớ câu chuyện thần thoại xa xưa, thần Trụ Trời lấy đất sét nặn ra con người và thổi hơi thở của mình vào những hình tượng vô tri để cho con người sự sống. Nhà văn phải chăng cũng là người thổi linh hồn mình vào trong hình tượng nhân vật để dù mang những phẩm chất đặc trưng, phổ quát của thế giới hiện thực, nó vẫn có một sức sống riêng, một cuộc đời cá biệt trong “tâm trí của người đọc”. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực là những kẻ đại diện cho bọn thống trị như Nghị Hách, Nghị Quế, Bá Kiến… hay những nạn nhân của xã hội cũ như anh Pha, chị Dậu, lão Hạc, Mị… Hiệu quả cao nhất mà những điển hình đó đạt được là bóc trần sự mục nát của xã hội thực dân phong kiến với một thái độ phủ nhận và phê phán mạnh mẽ. Nhưng độc đáo hơn, lần đầu tiên người ta biết đến một cách trị người tàn ác và mưu mô như của Bá Kiến, con đường leo lên xã hội thượng lưu nhơ bẩn và lố bịch như của Xuân Tóc Đỏ. Những hình tượng điển hình ấy không bao giờ chỉ đơn thuần là một bức tranh nhân sinh mà bao giờ cũng gửi đến người đọc một thông điệp; một triết lí sâu xa.
Biêlinxki từng phân biệt: “Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà văn nói bằng các hình tượng và bức tranh. Dù đều đi từ cái riêng đến cái chung để khám phá cuộc sống con người, khám phá bản chất của thực tại nhưng trong quá trình nghiên cứu, trong khi các nhà triết học, khoa học gạt bỏ những chi tiết cá biệt, những yếu tố ngẫu nhiên để tìm ra cái chung; để khẳng định yếu tố khách quan, chân lí thì trong nghệ thuật lại in đậm dấu ấn chủ quan, cái chung được biểu hiện trong cái riêng; cái riêng để khái quát cái chung. Hình tượng nhân vật ra đời nhằm mục đích đó. Chí Phèo, Thị Nở từ văn chương đã bước ra cuộc đời; trở thành những cái tên như minh chứng tiêu biểu cho tính điển hình của hình tượng nhân vật. Ta thấy trong cuộc đời nhọc nhằn của anh Pha, chị Dậu… dáng dấp ông cha, những người cả đời gắn bó với ruộng đồng và chịu biết bao nhiêu áp bức. Đó chính là sự “sinh ra từ tâm trí của nhà văn”. Nhưng không bao giờ những Chí Phèo, chị Dậu ấy là bản thân cuộc đời thực. Văn học chỉ có một Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong khi cuộc đời có cả ngàn thằng Chí Phèo uống rượu say rồi chửi bới. Không bao giờ người ta quên được tiếng nói khắc khoải của Chí Phèo: “Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện? Làm sao xóa được những vết sẹo trên mặt này?”. Không chỉ bởi một hiện thực khốc liệt của xã hội phong kiến dồn đuổi con người vào bước đường cùng mà sâu sắc hơn hết người ta nhận ra trong đó một khát vọng sống mạnh mẽ; cháy bỏng; một ước muốn lương thiện giản dị mà cao đẹp của một tâm hồn tội lỗi. Lần đầu tiên người ta nhận ra ánh sáng của lương tri, ánh sáng của tính người tỏa ra từ thân xác của con quỷ dữ. Đó chính là “ánh sáng riêng” của hình tượng Chí Phèo “chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc”.
Hình tượng nhân vật bao giờ cũng là ‘ con người của dân gian”. Nó được thoát thai từ hiện thực đời sống và mang những tính cách cơ bản nhất, bản chất nhất và nổi bật nhất của đời sống xã hội. Nguyễn Du từ bao nhiêu cuộc đời long đong, lận đận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã xây dựng lên hình tượng Thúy Kiều với tất cả nỗi đau khổ của loài người đúc kết lại:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Trong cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Kiều có những “vết xe đổ” của Đạm Tiên, của Tiểu Thanh, của người con gái đất Long Thành cùng biết bao nỗi đau khổ khác của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cuộc đời Thúy Kiều là một bức tranh toàn cảnh và sinh động về nỗi đoạn trường của người phụ nữ dưới xã hội hà khắc, nặng nề, tàn ác và thối nát của thời đại cũ. Hiện thực trong Truyện Kiều được tái hiện qua tâm trí của Nguyễn Du. Người đọc như được cùng nàng Kiều trải qua biết bao thăng trầm, tận mắt chứng kiến và thấu hiểu muôn vàn nỗi khổ đau của kiếp người. Nhưng Kiều không chỉ là đại diện cho một lớp người, cuộc đời Kiểu không đơn thuần chỉ là một bức tranh hiện thực rộng lớn và Nguyễn Du không chỉ là ngòi hiện thực chủ nghĩa một chiều. Kiều được ca tụng là người phụ nữ đẹp nhất của văn học Việt Nam bởi những nét đẹp riêng biệt, độc đáo, chỉ tài năng Nguyễn Du mới có thể sáng tạo nên:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
(Truyện Kiêu – Nguyễn Du)
Vẻ đẹp khiến cho trời đất phải ghen tức, vẻ đẹp làm thiên nhiên đảo lộn, có lẽ trong cả nền văn học Việt Nam, người ta chỉ tìm thấy mình Kiều. Kiều “sống trong tâm trí người đọc” không chỉ bởi nét riêng biệt “hơn người” ấy mà còn bởi tấm lòng cao cả của Nguỵễn Du được soi rọi trong những câu thơ đẹp nhất dùng để ca ngợi sắc đẹp người con gái tài hoa.
“Hình tượng văn học là sự tổng hợp những tư tưởng và say mê, là kết quả của một tấm lòng đầy thiết tha” (Biêlinxki). Hình tượng nhân vật trong tác phẩm bao giờ cũng mang dấu ấn mạnh mẽ của chủ quan nhà văn, bộc lộ tiếng nói riêng, phong cách độc đáo của người nghệ sĩ. Mỗi hình tượng nhân vật điển hình lại tỏa chiếu ra một ánh sáng riêng. Đó chính là ánh sáng của tư tưởng nhà văn, của lí tưởng thẩm mĩ được soi chiếu qua hình tượng. Hình tượng nhân vật là nơi gửi gắm trái tim sôi nổi nhiệt thành, đầỵ yêu thương của người viết. Đằng sau ngòi bút lạnh lùng; sắc sảo xây dựng nên một hình tượng Chí Phèo là trái tim Nam Cao nhức nhối những nhịp đập yêu thương và căm phẫn. Ông xây dựng Chí Phèo trong bi kịch bị cự tụyệt quyền làm người không chỉ để cất lên tiếng nói tố cáo xã hội mà còn là tiếng nói cảm thông đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người.
“Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí” bằng tài năng và tâm huyết của nhà văn, làm nên đặc điểm phong cách từng tác giả. Nó tỏa ra thứ ánh sáng của riêng người viết, ánh sáng của tài năng, của lương tri. Không một hình tượng nhân vật nào giống hình tượng nhân vật nào bởi nghề văn đòi hỏi sự sáng tạo, sự thâm nhập thực tế để xây dựng nên những hình tượng nhân vật bất hủ. Khi người nghệ sĩ đã thâm nhập sâu sắc vào nhân vật, họ như được sống cuộc đời của nhân vật, xúc động, yêu thương, vui buồn, đau khổ, giận hờn… như cảnh ngộ của chính mình.
Mỗi người nghệ sĩ khi sáng tạo mang trong mình một nhiệt huyết sáng tạo cháy bỏng và con mắt tinh nhạy, nhìn hiện thực cuộc sống với con mắt của người đầu tiên; đặc biệt là “sống toàn tim, toàn trí, toàn hồn – sống toàn thân và thức nhọn giác quan” để xây dựng hình tượng nhân vật mang ý nghĩa, ẩn chứa bao điều huỵền diệu, sâu sắc về nhân sinh. Và người tiếp nhận do đó khi thưởng thức tác phẩm cũng cần phải nâng cao trình độ thẩm mĩ, tìm hiểu và nhận ra ý nghĩa, giá trị của những hình tượng nhân vật.
Nhà văn là kẻ đã dùng những hình tượng và từ ngữ hoàn chỉnh lạ lùng để cô đặc lại những ý nghĩ, những cảm xúc, những giọt máu và những giọt lệ cay đắng, nóng bóng của thế gian này. Hơn bất kì một nghề nghiệp, tôi yêu nghề văn bởi hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của tôi và hiện thực cuộc đời dắt tôi đến một chân trời mới, một tâm hồn mới và những điều kì diệu chỉ thấy trong mơ.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời