03/01/2024
03/01/2024
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà văn hóa mà còn là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, tiêu biểu phải kể đến "Thuật hứng 24". Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết của thi nhân. Từ đó, thấy rõ hơn quan niệm sống tốt đẹp mà ông hướng tới.
"Thuật hứng" là chùm thơ gồm 25 bài trong "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi. Bài thơ số 24 được viết trong những ngày tác giả về ở ẩn Côn Sơn hòa mình vào với thiên nhiên. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được lựa chọn của mình:
"Công danh đã hợp về nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen"
Ở thời đại Nguyễn Trãi đang sống thì công danh là điều mà bất cứ ai cũng muốn đạt được. Có những người dành cả cuộc đời mình để chạy theo những cái xa hoa, phù phiếm bên ngoài. Nhưng xã hội bấy giờ mục nát, thật - giả lẫn lộn. Vậy nên thi nhân lựa chọn gạt bỏ công danh để "hợp về nhàn". Ông quyết định từ bỏ chốn quan trường đầy thị phi để hòa mình vào thiên nhiên. Quan niệm sống "nhàn" này cũng được bắt gặp trong bài thơ "Ngôn chí" (bài 3) của chính Nguyễn Trãi. Ông không quan tâm "lành dữ" những lời dèm pha của nhân gian mà chọn cho mình cuộc sống an yên, tự tại. Qua đây, người đọc có thể cảm nhận được Ức Trai là người không màng công danh, phú quý, luôn giữ một tâm hồn thanh sạch.
Ở hai câu thơ tiếp theo, độc giả cảm nhận được cuộc sống giản dị, dân dã của Nguyễn Trãi nơi quê nhà:
"Ao cạn vớt bèo cấy rau muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen"
Hình ảnh Nguyễn Trãi hiện lên trong hai câu thơ vô cùng chân thực, giản dị và gần gũi. Hàng ngày, thi nhân vớt bèo và cấy rau muống rồi phát cỏ trồng sen. Dù cho bữa ăn chỉ có rau muống thì thi nhân vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện. Trong "Ngôn chí" (bài 3), Nguyễn Trãi cũng thể hiện quan niệm của mình về cuộc sống dân dã nơi thôn quê "Cơm ăn dầu có dưa muối/Áo mặc nài chi gấm là". Từ đó, người đọc lại càng cảm nhận rõ hơn tâm hồn thanh cao, không màng công danh phú quý của người quân tử.
Không chỉ có lối sống giản dị, Nguyễn Trãi còn mang tâm hồn nhạy cảm, luôn yêu và gắn bó tha thiết với thiên nhiên:
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vậy then"
Ở chốn quê hương, Ức Trai lấy "phong", "nguyệt" làm bạn. Trăng như người bạn tri âm tri kỉ, đồng hành cùng người nghệ sĩ. Và đó cũng là nguồn cảm hứng sáng tác cho rất nhiều tác gia trung đại khác. Sự xuất hiện của hình ảnh trăng khiến độc giả cảm nhận rõ hơn bức tranh cuộc sống nên thơ, diễm lệ. Hai từ "yên hà" đã gợi lên tưởng tượng về sự thanh bình chốn làng quê. Dường như ở nơi đây hoàn toàn tách biệt với những bộn bề ngoài kia, chỉ có thiên nhiên bầu bạn với thi nhân. Vậy nên, lúc này nhà thơ như đang mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời.
Mặc dù "lánh đục tìm trong", từ bỏ chốn quan trường để lui về ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn dành trọn vẹn tấm lòng lo cho dân, cho nước:
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"
Hai câu thơ cuối khép lại như một lời khẳng định chắc nịch cho tấm lòng trung quân, ái quốc của tác giả. Về ở ẩn, nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn trăn trở, âu lo cho cuộc sống của nhân dân. Tấm lòng thủy chung của nhà thơ không gì có thể thay đổi được, có nhuộm màu cũng chẳng thể đen, chẳng thể vẩn đục.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú đặc sắc kết hợp với giọng điệu tâm tình, tha thiết và những hình ảnh thơ quen thuộc đã làm nổi bật những chiêm nghiệm về cuộc đời mà Ức Trai muốn truyền tải.
Qua bài thơ "Thuật hứng 24", độc giả cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông không chỉ yêu thiên nhiên mà còn một lòng lo cho dân cho nước, dành cả cuộc đời để mong mỏi "Dân giàu đủ khắp đòi phương".
03/01/2024
Nguyễn Trãi (1380-1442) là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời Đại việt trong thế kỷ 15. “Quốc âm thi tập” và "Ức trai thi tập" là hai kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Riêng "Quốc âm thi tập" – là một tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất mà ta còn giữ được gồm 254 bài – nó như ánh hào quang của ngôi sao Khuê lấp lánh xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc.
"Quốc âm thi tập" nhìn chung không có tên àải riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ: Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnh giớ.v.v… Đây là bài thơ số 24 trong chùm thơ "Thuật hứng" 25 bài:
Công danhđã được hợp về nhàn,
......
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
"Hợp" nghĩa là "nên", là "đáng”; “âu chi” nghĩa là "lo chi" Nguyễn Trãi là cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán, đã từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ). Ông là mưu sĩ của Lê Lợi trong 10 năm kháng chiến chống giặc Minh “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời", từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Ông là người anh hùng dân tộc văn võ song toàn, đúng là "công danh đã được”. Về sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép. "Lưng khôn uốn, lộc nên từ", ông đã vứt bỏ mọi công danh, tự dăn lòng mình: "hợp về nhàn", nên về Côn Sơn ở ẩn, sống cuộc đời thanh nhàn chan hoà với tạo vật. Câu thơ thứ hai nói lên thái độ, cách ứng xử của Nguyễn Trãi: chẳng quan lâm gì trước mọi chuyện thị phi "lành dữ", khen chê nữa. Mọi sự đánh giá sẽ do lịch sử, cần chi phải mệt lòng trăn trở. Đó là thái độ đúng, là khí tiết của kẻ sĩ khi đã thoát vòng danh lợi, lui về suối rừng ở ẩn. Trong bài thơ "Cuối xuân tức sự", ông có viết: "Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn,
Khách tục không ai bên mảng gần".
Một giọng thơ đủng đỉnh, khoan thai phản ánh một cuộc đời ung dung, tự tại. Hai câu trong phần “thực” nói lên nhịp điệu cuộc sống của Ức Trai khi đã "về nhàn": "Ao cạn vớt bèo cấy muống.
Đìa thanh phát cỏ ương sen." Mỗi câu thơ chỉ có 6 từ (lục ngôn). Cấu trúc câu thơ cân xứng cho thấy phép đối được vận dụng thần tình. "Ao cạn" với "đìa thanh", "vớt bèo cấy muống" với "phát cỏ ương sen" đối nhau chặt chẽ làm hiện len một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tự hào. Cuộc sống chẳng có sơn hào hải vị, chỉ có "muống", có "sen" rất bình dị mà thanh cao. Lúc ở triều đình, chức trọng quyền cao, trước sau Nguyễn Trãi vẫn chỉ là một ông quan thanh liêm: "Một tấm lòng son ngời cửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng”.
(Mạn hứng – 2)
Nhiều bài thơ Nguyễn Trãi nói về cuộc sống đạm bạc, giản dị của minh: “Đọc sách mười năm mà kiết xác – Ăn tràu rau muống chẳng chiên ngồi" (Gửi bạn). Cuộc đời một ông quan, một kẻ sĩ mà chẳng khác nào cuộc đời người dân quê: "Cơm ăn chẳng quản dưa muối – áo mặc nài chi gấm thêu …" (Thuật hứng – 22). Hai câu tiếp theo trong phần "luận", ý thơ được mở rộng làm rõ thêm vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai. Thi liệu mang đậm màu sắc ước lệ cổ điển đầy thi vị:
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then".
Lấy "phong, nguyệt" làm bầu bạn, lấy "yên, hà" làm nguồn vui mấy ai trong thiên hạ có đời sống tinh thần phong phú và thanh cao như Ức Trai? Phép đối và biện pháp tu từ thậm xưng diễn tả chiều sâu một tâm hồn, cái cao sang của một nếp sống đẹp. Cả ba tháng mùa thu với Ức Trai là một cái kho chứa đầy gió trăng đến tận nóc. Con thuyền của thi nhân suốt đêm ngày chỉ chở khó ráng thế mà cũng làm oằn đi những chiếc thang thuyền. Phong nguyệt, yên hà là những thứ chỉ có thể nhìn thấy, cảm thấy nhưng qua các hình ảnh: "kho thu", "thuyền chở" và các từ ngữ: "đầy”, “nặng” – tác giả đã "khối lượng hóa" các hiện tượng thiên nhiên ấy một cách tài tình. Chữ dùng chính xác, chọn lọc và hình tượng. Chỉ một chữ "đầy” trong thơ Ức trai mà ta liên tưởng đến bao câu thơ đẹp khác: “Gió, trăng chứa một thuyền đầy - của kho vô hạn biết ngày nào vơi "Nguyễn Công Trứ; "Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền" (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) - Hồ Chí Minh, v.v… Có thể nói, hai câu trong phân luận là hai câu thơ hay nhất, nó cho thấy một hồn thơ thanh cao, một cuộc sống tinh thần giàu đẹp, ung dung, hồn nhiên, tự tại của ức Trai chan hòa với thiên nhiên, tạo vật. Hai câu kết là lời tự bạch: Nguyễn Trãi bộc lộ tấc lòng mình, tấm lòng mình:
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
"Bui" là tiếng cổ, nghĩa là "chỉ"; "bui có" là chỉ có. Một cách nói khiêm tốn mà khẳng định, biểu lộ niềm tự hào về lòng trung hiếu của mình đối với nước, với vua và với cha mẹ. Trung hiếu là đạo làm tôi, đạo làm con. Tấm lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi vô cùng bền vững, son sắt, thuỷ chung, dù có mài đi cũng chẳng khuyết, có nhuộm đi cũng chẳng đen. Câu thơ lục ngôn khép lại bài thơ vang lên đĩnh đạc như một lời thề được khắc sâu bằng hai vế tiểu đối:
"Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”
Cuộc đời của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, thuỷ chung, sáng ngời trung hiếu. Trong thơ văn của Nguyễn Trãi, hai tiếng "trung hiếu" và "ưu ái" (ưu quốc, ái dân: lo nước, yêu dân) như một lời nguyền vang vọng cùng sông núi, trường tồn cùng năm tháng. Các thế hệ con cháu, mỗi lần đọc lên biết bao xúc động tự hào: "Bui có một niềm trung hiếu cũ,
Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh".
(Bảo kính cảnh giới – 1)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.
(Thuật hứng – 5)
Niềm trung hiếu, lòng ưu ái của Ức Trai vô cùng mãnh liệt như nước thuỷ triều cuồn cuộn chảy suốt đêm ngày ngoài biển đông.
"Thuật hứng" có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú riêng của mình. Học giả Đào Duy Anh trong cuốn "Nguyễn Trãi toàn tập" cho biết chùm thơ "Thuật hứng" được viết ra trong thời kỳ Ức Trai về sống ở Côn Sơn. Bài thơ "Thuật hứng – 24" này được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú; các câu 3, 4, 8 chỉ có 6 từ. Giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng điệu tâm tình, cởi mở. Các thi liệu: ao, bèo, muống, đĩa, cỏ, sen, kho, thu, phong, nguyệt, thuyền, yên, hà - tạo nên cốt cách bài thơ vừa dân dã, mộc mạc vừa cổ điển thanh cao. “Thuật hứng” đã thể hiện một cách đẹp đẽ sâu sắc những tư tưởng tình cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi, thích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ trọng lòng trung hiếu son sắt, thuỷ chung. Đọc bài thơ, ta vô cùng kính yêu và cảm phục Nguyễn Trãi - một nhân cách kẻ sĩ cao đẹp như vua Lê Thánh Tông đã ngợi ca: "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo".
03/01/2024
Ngọc Thư Bài thơ "Thuận Hứng (24)" của nhà thơ Hàn Mặc Tử là một tác phẩm nghệ thuật đầy sức cuốn hút và ý nghĩa. Bài thơ này không chỉ là một tấm gương sáng cho sự tưởng tượng và sáng tạo của tác giả, mà còn chứa đựng nhiều thông điệp sâu sắc về cuộc sống và tình yêu.
Đầu tiên, bài thơ "Thuận Hứng (24)" thể hiện sự tưởng tượng phong phú của Hàn Mặc Tử. Tác giả sử dụng những hình ảnh tươi sáng và màu sắc rực rỡ để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu. Những câu thơ như "Mây trắng bay trên trời xanh", "Hoa vàng rơi trên đường mây" tạo nên một không gian mơ màng và lãng mạn. Từng cung bậc cảm xúc được tác giả khéo léo diễn đạt qua những từ ngữ tinh tế, tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp trong tâm trí người đọc.
Thứ hai, bài thơ cũng chứa đựng thông điệp về cuộc sống và tình yêu. Hàn Mặc Tử đã sử dụng hình ảnh của một cô gái trong bài thơ để miêu tả tình yêu và sự khao khát tự do. Cô gái trong bài thơ được xem như biểu tượng cho sự tìm kiếm và khao khát tự do, không bị ràng buộc bởi những quy tắc xã hội. Tác giả muốn truyền đạt ý nghĩa rằng tình yêu là một điều tuyệt vời và tự do là quyền lợi của mỗi người.
Cuối cùng, bài thơ "Thuận Hứng (24)" còn mang đến cho người đọc cảm giác thoải mái và yên bình. Những từ ngữ êm dịu và những hình ảnh tươi sáng trong bài thơ tạo nên một không gian tĩnh lặng và thư thái. Đây là một cách để tác giả truyền đạt ý nghĩa về sự thanh thản và hạnh phúc trong cuộc sống.
Tóm lại, bài thơ "Thuận Hứng (24)" của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm nghệ thuật đáng để khám phá và suy ngẫm. Từ việc sử dụng tưởng tượng phong phú, truyền đạt thông điệp về cuộc sống và tình yêu, cho đến việc tạo nên cảm giác thoải mái và yên bình, bài thơ này đã chinh phục được lòng người đọc và để lại ấn tượng sâu sắc.
Thương Phạm
11/02/2025
Vãi cả! "Thuật hứng 24" của Hàn Mặc Tử cơ. "Thuật hứng 24" là một bài thơ nằm trong chùm thơ "Thuật hứng" gồm 25 bài của nhà thơ Nguyễn Trãi thưa bà. Bà có phân tích hay đến đâu mà sai tên tác giả người chấm cũng coi như bà chẳng hiểu mẹ gì.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
12/07/2025
Top thành viên trả lời