11/01/2024
11/01/2024
Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì 1930 – 1945. Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính là điểm đặc sắc trong các sáng tác của Nam Cao, giúp ông khắc họa sinh động hiện thực cuộc sống của những con người cùng khổ. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Giăng sáng”. Đoạn trích trên đã thể hiện tình yêu dành cho vầng trăng, tâm hồn thi ca, yêu văn chương nghệ thuật của Điền - nhân vật chính của tác phẩm.
Nhân vật Điền trong câu chuyện là một người đầy tâm huyết và đam mê với văn thơ. Từ những dòng văn mô tả, ta thấy Điền không chỉ là người nông dân mộng mơ với giăng và những hình ảnh trang trí, mà còn là người có tâm hồn sâu sắc, nhạy bén và tràn đầy tình cảm.
Điền yêu thơ và thể hiện sự quý phái của giăng thông qua những từ ngữ tươi sáng và lôi cuốn. Đối với Điền, giăng không chỉ là một chiếc liềm vàng, mà còn là điểm nhấn quý phái giữa đám sao, một chiếc đĩa bạc trên thảm nhung da trời. Những hình ảnh này không chỉ là miêu tả vật dụng mà còn là biểu tượng cho tâm hồn cao quý và đẹp đẽ mà Điền chắc chắn mang trong lòng.
Văn của Điền mang đậm chất tâm linh, với hình ảnh giăng tỏa mộng xuống trần gian và tuôn suối mát. Những cảm nhận này không chỉ là về vật chất mà còn là về tinh thần, về sự tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và niềm tin vào cái đẹp và quý phái. Điền thể hiện tình yêu và tôn trọng đối với giăng như một nguồn cảm hứng và năng lượng tích cực.
Có thể thấy, Điền không chỉ là người nông dân chăm chỉ làm ruộng mà còn là một nhà thơ tâm huyết, một người có cái nhìn sâu sắc về đẹp và giá trị tinh thần. Việc ông bán cả ruộng để con đi học là một quyết định đầy hy sinh và tình yêu thương. Mặc dù không thành công trong việc tìm kiếm việc làm ổn định, nhưng Điền vẫn tin rằng học thức đã mang lại cho mình nhiều điều có ích và giúp ông hiểu được cái đẹp của gió và giăng.
Diễn biến tâm lý của nhân vật trong “Giăng sáng” thực chất là quá trình đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những đối cực trong nội tâm con người. Xung đột chủ yếu trong những sáng tác của Nam Cao là xung đột của thế giới nội tâm nhân vật. Kể cả trong “Chí Phèo”, căng thẳng nội tâm cũng diễn ra trước và được nhà văn miêu tả kĩ hơn là phút hành động cuối cùng. Nhân vật của Nam Cao luôn ở trong tâm thế chông chênh giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện thực nghèo túng. Và hơn hết, họ chẳng thể nào thanh thản để chọn lấy một con đường. Điền yêu trăng, coi trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp sang trọng của nghệ thuật. Những tối có trăng, Điền khuân mấy cái ghế ra sân ngồi cùng vợ con. Những phút thảnh thơi hiếm hoi ấy xoa dịu lòng Điền. Nhờ có tâm hồn đẫm văn thơ mà Điền thấy người vợ mới cằn cỗi làm sao! Lúc nào thị cũng tính toán, luôn luôn tính toán. Điền cho rằng điều ấy nhỏ nhen và tầm thường. Thế nhưng, chính Điền cũng vô thức trở thành kẻ tính toán lúc nào không hay. Khi chứng kiến cảnh nheo nhóc của gia đình, bỗng nhiên Điền nảy sinh nỗi đau quằn quại. Đấu tranh nội tâm gay gắt đang tra tấn Điền. “Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi...”. Chỉ có những người đàn bà đẹp mới biết yêu văn chương của Điền và ý nghĩ này làm chính anh ta thấy xấu hổ. Nam Cao đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm trạng con người để vén bức màn đang che giấu những khát khao thầm kín. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở nên rõ rệt, cơn ốm cùng tiếng rên đau đớn của đứa con, sự tức giận đến khổ sở của người vợ làm Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Khi phản ánh mâu thuẫn giữa hiện thực và sự mơ mộng, nhà văn thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ rời xa tầng lớp lao động cần lao để sống với ảo tưởng. Bi kịch của Điền đến từ sự ngộ nhận, chọn lựa sai lý tưởng sống. Miêu tả những mâu thuẫn âm thầm mà căng thẳng trong nội tâm nhân vật, Nam Cao đã đưa ra tuyên ngôn đúng đắn về nghệ thuật. Nhà văn phải “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
Điểm xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao nằm ở việc nhà văn đưa ra nguyên nhân cho những nét tâm trạng ấy. Sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, hoàn cảnh sống luôn chi phối quyết định con người. Nam Cao không chỉ phơi bày mà còn lí giải. Được học hành, có tài văn chương, mong muốn dùng văn chương để cải tạo cuộc đời nhưng thời thế, hoàn cảnh đã bạc đãi Điền. Ai trên đời cũng muốn tài năng của mình trở nên hữu ích. Hoàn cảnh nghèo khó khiến Điền cảm thấy mình ích kỉ khi những đứa em bơ vơ, nheo nhóc. Khi tạm gác văn chương để kiếm tiền, mẹ lại bắt Điền lấy vợ. Gia đình to rồi đến gia đình nhỏ, anh kiệt sức, trở thành kẻ ăn bám thừa mứa và lại khao khát thoát li thực tại. Cái vòng quanh quẩn, tăm tối này cứ lặp đi lặp lại khiến nhân vật sống trong vòng xoáy bất hạnh.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ trần thuật cũng là yếu tố góp phần làm nên thành công cho nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ngôi kể thứ ba luôn tạo dựng được tính chân thật, khách quan cho câu chuyện. Nhưng cũng có khi, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau, thể hiện trực tiếp cảm xúc của nhân vật và cho thấy thái độ của nhà văn: “Trăng, ơi trăng! Cái vú mộng tròn đầy mà thi sĩ của muôn đời mon man! Ðiền không ân hận chút nào. Hai thân Ðiền bán cả ruộng, vườn đi để cho Ðiền đi học chẳng phí đâu. Ðã đành các người chỉ có cái mục đích con làm nên ông phán, ông tham để ấm thân; các người hoàn toàn thất vọng khi thấy con leo cau đến tận buồng mà lại hỏng ăn. Ðiền tạng yếu quá, không được nhận vào công sở; và các người đã vội cho là tiền con đi học thật là tiền vất xuống sông. Nhưng Ðiền tin rằng: cái học thức của Ðiền tuy chẳng giúp Ðiền kiếm nổi miếng ăn, nhưng cũng có ích cho Ðiền nhiều lắm ". Điểm nhìn trần thuật cũng vì thế mà trở nên linh hoạt, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc.
Đoạn trích cũng như truyện ngắn “Giăng sáng” đã góp phần thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ trước Cách mạng tháng Tám, bi kịch đó là bi kịch của những văn nghệ sĩ yêu văn chương, khao khát sống một cuộc đời có ích, khao khát viết lên những tác phẩm giá trị. Nhưng cuối cùng lại bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất. Họ không thực hiện được giấc mộng văn chương của mình, sống trong day dứt, đau khổ. Tuy vậy, họ không đánh mất mình, họ vẫn đấu tranh cho lẽ sống đẹp.
11/01/2024
Long PhuĐoạn trích trên miêu tả về Ðiền, một người yêu thơ và tin rằng việc học thơ có ích cho cuộc sống của mình. Người ta nhận thấy rằng giăng là một cái đẹp và quý giá. Ðiền không hối tiếc bán cả ruộng, vườn để đi học và tin rằng việc học thơ giúp ông hiểu được cái đẹp của gió và giăng. Tuy nhiên, người ta cũng nhận thấy rằng Ðiền gặp khó khăn trong cuộc sống, không được nhận vào công sở và các người xung quanh thất vọng khi thấy con của ông không thành công.
11/01/2024
Long PhuĐoạn trích trên miêu tả ý kiến của nhân vật Điền về tình yêu của mình đối với văn thơ và giăng. Điền cho biết rằng ông yêu giăng rất nhiều và chỉ khi đọc văn thơ mới nhận ra giăng là một cái đẹp và quý giá. Giăng được miêu tả như một cái liềm vàng, cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời, tỏa mộng xuống trần gian và tuôn suối mát để làm dịu lòng những hồn khát khao. Điền cũng nhắc đến trăng và sự mê hoặc của nó trong văn thơ.
Điền không hối tiếc vì đã bán ruộng và vườn để có tiền đi học. Ông cho rằng việc học không chỉ giúp ông hiểu được cái đẹp của gió và giăng mà còn có ích cho ông nhiều lắm. Mặc dù ông không kiếm được miếng ăn từ học thức, nhưng ông tin rằng nó mang lại nhiều giá trị cho ông. Điền cũng phàn nàn về tình hình khó khăn của gia đình và những tâm hồn cằn cỗi như tâm hồn của vợ ông.
Cuối cùng, Điền nhắc đến việc giăng chỉ tốn hai xu dầu đối với những người khác, nhưng đối với ông thì giăng có ý nghĩa và giá trị lớn hơn.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời